Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 32/2021/HNGĐ – ST ngày 01/02/2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 31/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2021/QĐ-ST ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1989.

Địa chỉ : Thôn T, xã Đ, huyện S, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).

2. Bị đơn : Chị Phạm Thị X, sinh năm 1989.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Thôn Đ, xã G, Thành phố H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

Hiện đang ở : Đài Loan.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : ông Phạm Văn S, sinh năm 1962.

Địa chỉ : Đội 9, thôn Đ, xã G, thành phố H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn nguyên đơn anh Hoàng Văn Th trình bầy: Anh và chị X tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện L (nay là Thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương ngày 29/7/2011. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung. Khoảng năm 2012 chị X đã bế con về nhà đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị X.

Về con chung: Vợ chồng anh có 1 con chung là Hoàng Văn D, sinh ngày 13/6/2011. Hiện nay cháu đang ở với ông bà ngoại là ông Phạm Văn S và bà Lê Thị H. Ly hôn anh đồng ý để cháu D ở với chị X. Trong thời gian chị X không có mặt tại Việt Nam, anh đồng ý để cháu D ở với ông bà ngoại và sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.500.000đ/tháng cho đến khi cháu D tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị X không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án do anh Th không cung cấp được địa chỉ của chị Phạm Thị X tại Đài Loan nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của ông Phạm Văn S là bố đẻ chị X, đồng thời yêu cầu ông S cung cấp địa chỉ của chị X ở nước ngoài. Ông S xác định chị X hiện đang lao động tại Đài Loan, ông không biết địa chỉ của chị X ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên chị X thường xuyên liên lạc về cho ông, việc anh Th làm đơn ly hôn, ông và gia đình đều biết.Trong cuộc sống vợ chồng anh Th, chị X sống không hạnh phúc,vợ chồng ly thân từ năm 2012, mỗi người ở một nơi. Ông S đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị X biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông tin cho chị X biết, thông qua gia đình chị X có quan điểm đồng ý ly hôn và đề nghị được giải quyết vắng mặt; Về con chung chị có nguyện vọng được nuôi con. Trong thời gian không ở Việt Nam chị ủy quyền cho ông S chăm sóc, nuôi dưỡng cháu cháu D; Về việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu mức tiền cấp dưỡng cụ thể mà để tùy anh Th cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung, nợ chung không có, ly hôn chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Cháu Hoàng Việt D là con chung của anh Th, chị X có nguyện vọng được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn. Trong thời gian mẹ ở nước ngoài, cháu có nguyện vọng được ở với ông bà ngoại là ông Phạm Văn S và bà Lê Thị H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của anh Th, chị X đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Th được ly hôn chị X. Về con chung: Giao cháu Hoàng Việt D, sinh ngày 13/6/2011 cho chị X chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian chị X không ở Việt Nam, tạm giao cháu D cho ông S chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Th phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị X 1.500.000đ/tháng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Th không cung cấp được địa chỉ của chị X tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình chị X cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ. Quá trình giải quyết vụ án chị X có quan điểm ủy quyền cho ông S nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Hoàng Việt D trong thời gian chị X không ở Việt Nam, nên Tòa án xác định ông S là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Anh Th, chị X, ông S có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Hoàng Văn Th và chị Phạm Thị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện L (nay là Thành phố H), tỉnh Hải Dương ngày 29/7/2011, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung. Năm 2012 chị X đã đưa con về gia đình đẻ ở, hai bên không quan tâm đến nhau, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, có đơn đề nghị giải quyết ly hôn. Thông qua gia đình, chị X cũng có quan điểm đồng ý ly hôn anh Th. Do vậy có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Th.

- Về con chung: Anh Hoàng Văn Th và chị Phạm Thị X có một con chung là Hoàng Văn D, sinh ngày 13/6/2011, từ nhỏ cháu D đã ở với mẹ và ông bà ngoại. Ly hôn anh Th đồng ý để chị X nuôi con. Cháu D cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Ông Phạm Văn S là bố đẻ của chị X có quan điểm đồng ý thay chị X chăm sóc cháu D trong thời gian chị không ở Việt Nam. Xét thực tế cháu D được ông bà ngoại chăm sóc, nuôi dưỡng từ nhỏ, hiện cháu học tập và phát triển tốt. Do vậy để đảm bảo sự ổn định của cháu và cũng phù hợp với nguyện vọng của các đương sự, Hội đồng xét xử sẽ tiếp tục giao cháu D cho chị X nuôi dưỡng. Trong thời gian chị X không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu D cho ông Phạm Văn S chăm sóc. Anh Th phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng cho chị X là 1.500.000đ/tháng cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4].Về án phí: Anh Hoàng Văn Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng tiền nuôi con chng theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Hoàng Văn Th được ly hôn chị Phạm Thị X.

2.Về con chung: Giao con chung Hoàng Việt D, sinh ngày 13/6/2011 cho chị X chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi con chung tròn 18 tuổi. Anh Th phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con cùng chị X là 1.500.000đ/tháng, thời gian từ tháng 4/2021 cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Trong thời gian chị X không có ở Việt Nam, tạm giao cháu D cho ông Phạm Văn S chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Th được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành các khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Anh Hoàng Văn Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000đồng án phí cấp dưỡng tiền nuôi con. Được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) anh Th đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0005733 ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Anh Th còn phải nộp 300.000đồng án phí cấp dưỡng tiền nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Hoàng văn Th, ông Phạm Văn S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Chị Phạm Thị X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung 

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về