Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 5 năm 2019 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị H, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: Buôn M, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Anh Y, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: Buôn R, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 03/12/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị H trình bày:

Chị và anh Y kết hôn với nhau vào ngày 15/7/2011, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, việc kết hôn của anh, chị là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn và về chung sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng anh, chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách anh, chị không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Y đã nhiều lần đánh đập chị H, không chăm lo cho cuộc sống gia đình và bỏ về nhà cha mẹ đẻ, chị H và gia đình đã đến nói chuyện, gọi anh Y về, nhưng chỉ được một thời gian ngắn anh Y lại bỏ về nhà cha mẹ đẻ. Chị và anh Y đã sống ly thân từ cuối năm 2012 đến nay.

Chị H nhận thấy tình cảm giữa chị và anh Y không còn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, chị và anh Y không còn chung sống với nhau đã lâu nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh Y.

Về con chung: Chị H và anh Y có 01 con chung tên là T, sinh ngày 20/4/2012, hiện nay đang ở với chị H, khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu anh Y cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Chị H xác định chị và anh Y không có tài sản và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Y: Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và giấy triệu hợp lệ nhiều lần nhưng anh Y không đến Tòa án làm việc. Qua xác minh tại địa phương thì được biết anh Y hiện đang cư trú tại buôn R, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, anh Y không đến Tòa để tham gia tố tụng nên Tòa án không thể lấy lời khai của anh Y được.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và về việc giải quyết vụ án:

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự đúng quy định tại các điều 28, 35, 39, 48, 51, 68, 70, 71, 72, 96, 97, 179, 195, 196, 203, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn chị H thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn anh Y không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 72 và Điều 74 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các điều 56, 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị H, cho chị H được ly hôn với anh Y.

Về con chung: Giao cháu T, sinh ngày 20/4/2012 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản và nợ chung: Chị H xác định không có nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị H có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Y. Đây là quan hệ tranh chấp “Ly hôn và nuôi con”. Bị đơn anh Y cư trú tại: Buôn R, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn anh Y, nhưng anh Y không đến Tòa án làm việc nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai và hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật.

Anh Y đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H kết hôn với anh Y do tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 15/7/2011 tại UBND xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và về chung sống với nhau được một thời gian giữa chị H và anh Y phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Y đánh đập chị H nhiều lần, vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trách nhiệm với gia đình. Chị H và anh Y đã sống ly thân từ cuối năm 2012 đến nay.

Qua xác minh tại buôn R, thị trấn B, huyện K, nơi anh Y cư trú, thể hiện vợ chồng anh Y và chị H đã xảy ra mâu thuẫn từ tháng 3 năm 2012, việc vợ chồng anh, chị mâu thuẫn với nhau đã được hai bên gia đình hòa giải, nhưng mâu thuẫn giữa anh, chị vẫn không thay đổi, anh Y đánh chị H nhiều lần, không chăm lo cho cuộc sống gia đình, ham chơi bời bên ngoài, vợ chồng anh, chị đã sống ly thân từ cuối năm 2012 đến nay.

Hội đồng xét xử xét thấy giữa chị H và anh Y không còn tình cảm, thương yêu, tôn trọng nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, cho chị H được ly hôn anh Y là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị H và anh Y có 01 con chung là T, sinh ngày 20/4/2012, khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung T. Xét điều kiện, hoàn cảnh của chị H và nguyện vọng của cháu T. Xét quyền lợi mọi mặt của con, c ng như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, từ trước đến nay cháu T ở với chị H tại buôn M, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có nơi ở, sinh hoạt, học tập ổn định. Đồng thời chị H có công việc và thu nhập ổn định. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh Y có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở việc thực hiện quyền này.

- Về tài sản chung: Chị H xác định chị và anh Y không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị H xác định chị và anh Y không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, anh Y không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[6] Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56; 81; 82; 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

1. Về hôn nhân: Chị H được ly hôn anh Y.

Về nuôi con chung: Giao con T, sinh ngày 20/4/2012 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên không giải quyết.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 9235 ngày 13/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về