Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Trà M, sinh năm 1990; nơi cư trú: Số 08/40 đường NHQ, phường TL, quận HB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Văn M1, sinh năm 1989; nơi ĐKHKTT: Số 08/40 đường NHQ, phường TL, quận HB, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại: Cộng hòa liên bang Đức; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 11 năm 2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Trà M trình bày:

Chị và anh Phạm Văn M1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường TL, quận HB, thành phố Hải Phòng vào ngày 09 tháng 6 năm 2010. Sau khi kết hôn, chị và anh Phạm Văn M1 chung sống hòa thuận, hạnh phúc cho đến năm 2017 thì quan hệ vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, lối sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã. Tháng 10 năm 2017, chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống và vợ chồng chị bắt đầu sống ly thân, không liên lạc với nhau, không ai quan tâm đến ai. Qua thông tin của những người thân trong gia đình anh Phạm Văn M1, chị được biết hiện nay anh Phạm Văn M1 đang sinh sống tại Cộng hòa liên bang Đức. Đến nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ nên chị đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn M1.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn M1 có hai con chung là Phạm Hoàng H sinh ngày 24 tháng 9 năm 2010 và Phạm Nguyễn Huyền A sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013. Ly hôn, chị xin được nuôi cả hai con vì thực tế từ khi vợ chồng chị và anh M1 sống ly thân, chị là người trực tiếp nuôi hai con. Chị không yêu cầu anh M1 cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn M1 hiện đang ở nước ngoài. Nguyên đơn chị Nguyễn Trà M chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của anh Phạm Văn M1 mà không cung cấp được địa chỉ của anh Phạm Văn M1 ở nước ngoài. Thông qua bố mẹ đẻ của anh Phạm Văn M1 được biết anh Phạm Văn M1 vẫn liên lạc với bố mẹ ở trong nước nhưng bố mẹ của anh Phạm Văn M1 không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh Phạm Văn M1 cho Tòa án cũng. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho anh Phạm Văn M1 theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, chị Nguyễn Trà M vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt và có quan điểm vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Phạm Văn M1. Anh Phạm Văn M1 vắng mặt và không có ý kiến gì gửi cho Tòa án.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn chị Nguyễn Trà M và bị đơn anh Phạm Văn M1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa, tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Trà M có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phạm Văn M1 vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử vắng mặt chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 là đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận cuộc sống vợ chồng của chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 không có hạnh phúc, hiện m i người sống một nước, không có khả năng đoàn tụ, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Trà M. Về con chung: Chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 có hai con chung là Phạm Hoàng H sinh ngày 24 tháng 9 năm 2010 và Phạm Nguyễn Huyền A sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013, chị Nguyễn Trà M đề nghị được nuôi dưỡng con chung. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cả hai con chung ở với chị Nguyễn Trà M, anh Phạm Văn M1 ở nước ngoài. Vì vậy, cần giao cả hai con chung cho chị Nguyễn Trà M tiếp tục nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Trà M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không phải xem xét, giải quyết. Về tài sản chung, chị Nguyễn Trà M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không phải xem xét, giải quyết. Chị Nguyễn Trà M phải chịu án phí và các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày của các đương sự, quan điểm của Viện Kiểm sát tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Trà M có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh Phạm Văn M1. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Phạm Văn M1 hiện đang cư trú ở nước ngoài nên theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Nguyễn Trà M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Phạm Văn M1 hiện đang sinh sống ở nước ngoài, chị Nguyễn Trà M chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh Phạm Văn M1 ở Việt Nam mà không cung cấp được địa chỉ của anh Phạm Văn M1 ở nước ngoài, bố mẹ đẻ của anh Phạm Văn M1 xác nhận anh Phạm Văn M1 vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình tuy nhiên Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã yêu cầu đến lần thứ hai nhưng bố mẹ đẻ của anh Phạm Văn M1 không cung cấp được địa chỉ, tin tức của anh Phạm Văn M1 cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh Phạm Văn M1 biết để gửi lời khai về cho Tòa án nên coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Các đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh M1 theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã được Ủy ban nhân dân phường TL, quận HB, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09 tháng 6 năm 2010. Theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 hiện m i người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai, không còn yêu thương nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ , do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Trà M về việc xin ly hôn anh Phạm Văn M1 theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 có hai con chung là Phạm Hoàng H sinh ngày 24 tháng 9 năm 2010 và Phạm Nguyễn Huyền A sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013. Vợ chồng chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 sống ly thân từ năm 2017, cả hai con chung hiện đang sinh sống ổn định với chị Nguyễn Trà M. Hiện anh Phạm Văn M1 đang ở nước ngoài. Bản thân hai cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cả hai con chung cho chị Nguyễn Trà M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Trà M tạm thời không yêu cầu anh Phạm Văn M1 cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Trà M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Trà M là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Văn M1 được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Trà M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Trà M được ly hôn anh Phạm Văn M1.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Hoàng H sinh ngày 24 tháng 9 năm 2010 và cháu Phạm Nguyễn Huyền A sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013 cho chị Nguyễn Trà M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Trà M tạm thời không yêu cầu anh Phạm Văn M1 cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Trà M không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Trà M phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng theo biên lai số 0010078 ngày 11 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận HB, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Trà M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Nguyễn Trà M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Anh Phạm Văn M1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về