Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21/5/2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện TP, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 549/2020/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/4/2021; quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nguyệt H, sinh năm 1985 KHTT: Số nhà 3538, Tổ 3, Ấp PL 3, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN.

Chỗ ở: Số nhà 3044, PT, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN.

Bị đơn: Ông Vũ Mạnh D, sinh năm 1980.

KHTT: Số nhà 3538, Tổ 3, Ấp PL3, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN.

Chỗ ở: Số nhà 3536, Tổ 3, Ấp PL 3, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN.

(Tại phiên tòa vắng mặt bà H, ông D. Bà H có đơn xin vắng mặt, ông D triệu tập hợp lệ lần thứ hai Nng vẫn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01/12/2020, lời khai trong quá trình tố tụng ý kiến, yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nguyệt H thể hiện:

Bà H và ông Vũ Mạnh D tự nguyện tìm hiểu yêu thương rồi tiến tới chung sống với nhau vào năm 2007. Hôn nhân của ông bà được Uỷ ban nhân dân xã PT, huyện TP cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 28/5/2007. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xuất phát từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung không hòa hợp. Đầu năm 2021, bà đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống tại Số nhà 3044, ấp Phú Thắng, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN cho đến nay. Từ khi không sống chung ông bà không quan tâm chăm sóc nhau. Nay bà không còn tình cảm với ông D nên yêu cầu được ly hôn với ông Vũ Mạnh D.

Về con chung: Bà và ông D có 01 con chung là Vũ Quỳnh N, sinh ngày 04/3/2008. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà kê khai không có và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Bà và ông D không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà H đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu của bà H, ông D (Bản sao); Giấy khai sinh của con (Bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính).

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Bản tự khai của nguyên đơn; Biên bản xác minh về sự có mặt của đương sự tại địa phương, việc đăng ký kết hôn, tình trạng hôn nhân của các đương sự; Đơn xin thể hiện nguyện vọng của cháu Vũ Quỳnh N. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho những người vắng mặt theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và các đương sự tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H + Về quan hệ hôn nhân: Cho bà H được ly hôn ông D.

+ Về quan hệ nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao con chung là Vũ Quỳnh N, sinh ngày 04/3/2008 cho bà H nuôi dưỡng và không xem mức cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu Tòa án xem xét. Vì không có lời khai của ông D nên khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

+ Về nợ chung: Bà H khai báo không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì không có lời khai của ông D nên khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

+ Về án phí: Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

- Điều luật áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 203, 205 và khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về thu nộp án phí, lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, bà H vắng mặt do bà có đơn xin vắng mặt, ông D được triệu tập hợp lệ lần thứ hai Nng vẫn vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1]. Xác định thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Ông D có địa chỉ tại Ấp Phú Lâm 3, xã PS, huyện TP, tỉnh ĐN. Vì vậy, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TP. Bà H yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con, vì vậy cần xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Xác định tư cách đương sự: Ngày 01/12/2020, bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông D. Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà H là nguyên đơn, ông D là bị đơn trong vụ án.

- Bà H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, ông D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai vì vậy căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mắt các đương sự.

[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà H, ông D được xác lập vào năm 2007. Hôn nhân của ông bà được Uỷ ban nhân dân xã PT, huyện TP cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 28/5/2007. Bà H có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Tòa án giải quyết theo thủ tục chung về ly hôn mà Luật hôn nhân và gia đình quy định.

Xét lời khai của bà H và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng ông bà sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xuất phát từ việc vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống và không đồng lòng chung sức chăm lo cho gia đình. Nay bà H nhận thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống nên bà yêu cầu ly hôn với ông D.

Qua xác minh tại địa phương cho thấy vợ chồng ông bà không còn hạnh phúc, đầu năm 2021, ông bà đã không còn sống chung với nhau. Ông bà ít trao đổi qua lại với nhau để vợ chồng có cơ hội về chung sống đoàn tụ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục cấp, tống đạt, niêm yết: Thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập đương sự và các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp cũng N Tòa án thu thập được cho các bên đương sự. Tòa án đã thông báo và mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ bà H không có ý kiến gì và không bổ sung gì thêm. Bị đơn ông D vắng mặt đã được tòa án ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật. Do ông D vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu nào của ông D.

Như vậy, có căn cứ xác định ông bà đã vi phạm nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Để ông bà sớm có điều kiện ổn định cuộc sống của mình, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp chận yêu cầu của bà H, cho bà được ly hôn với ông D.

[2.2]. Về quan hệ nuôi dưỡng con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung:

Bà H khai báo có 01 (một) con chung là Vũ Quỳnh N, sinh ngày 04/3/2008.

Xét nguyện vọng nuôi con của bà H: Con chung hiện do bà H đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Khi ly hôn, các bên đều có quyền được nuôi con, tuy nhiên trong suốt quá trình giải quyết vụ án ông D không có mặt tại Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến của ông D đối với yêu cầu nuôi con của ông.

Do cháu Quỳnh còn nhỏ và quen với môi trường chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giữ nguyên nếp sống sinh hoạt hiện nay nhằm đảm bảo ổn định tâm lý cho con chung và phù hợp với nguyện vọng của cháu Quỳnh. Hội đồng xét xử nhận xét thấy nên chấp nhận yêu cầu được nuôi dưỡng con chung của bà H là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bà H không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn. Khi nào có tranh chấp về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Do trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông D về yêu cầu này vì vậy khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3]. Về án phí: Bà H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 238, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nguyệt H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Nguyệt H được ly hôn ông Vũ Mạnh D.

2. Về con chung: Bà H và ông D có 01 con chung là Vũ Quỳnh N, sinh ngày 04/3/2008.

Giao con chung là Vũ Quỳnh N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm thời ông D không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không yêu cầu. Ông D có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét do bà H không yêu cầu. Khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

5. Về án phí: Bà H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) bà H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0003903 ngày 22/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TP, tỉnh ĐN chuyển thành án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Nguyệt H và ông Vũ Mạnh D có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về