Bản án 54/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 54/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/8/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa,tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2020/TLST-HS ngày 13/7/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST-HS ngày 27/7/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 1987; Tên gọi khác: Không Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: xóm Đồng Đậu, xã Tân Khánh, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn 02/12; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không Họ và tên cha: Nguyễn Văn Thỏa (đã chết); Họ và tên mẹ: Dương Thị Nhượng, sinh năm 1954;

Vợ là: Nguyễn Thị Hảo, sinh năm 1980; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2007;

Gia đình có 06 anh chị em. Bị cáo là con thứ sáu;

- Tiền án; tiền sự: 0;

- Nhân thân:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2011/HSST ngày 11/3/2011 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Văn K 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản bị trộm cắp giá trị 35.000.000 đồng). Kiệm đã chấp hành xong bản án.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2013/HSST ngày 14/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Văn K 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản bị trộm cắp giá trị 14.000.000 đồng). Kiệm đã chấp hành xong bản án.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0090455/QĐ-XPHC ngày 12/11/2015 của Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phát Nguyễn Văn K số tiền 7.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Kiệm đã chấp hành xong quyết định này.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang ( có mặt).

*Người làm chứng:

Chị Lê Thị Ngân – sinh năm 1989 (có mặt).

Trú tại: thôn Lạc Yên 1, Hoàng Vân, Hiệp Hòa, Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 10 ngày 16/5/2020 tại gia đình của chị Lê Thị Ngân, sinh năm 1989 ở thôn Lạc Yên 1, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Công an xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Nguyễn Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Nguyễn Văn K tự nguyện giao nộp 01 đoạn ống nhựa màu cam được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa có đường viền màu đỏ bên trong chứa mảnh vỡ của viên nén màu hồng đỏ nghi là ma túy. Toàn bộ số vật chứng trên Kiệm lấy từ trong phích đựng đá bằng nhựa màu vàng để trong phòng ngủ của chị Lê Thị Ngân. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã niêm phong tang vật trong phong bì thư có ký hiệu “QT”. Ngoài ra, Công an xã Hoàng Vân còn tạm giữ của Kiệm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen (BL 11-13).

Ngày 17/5/2020, Công an xã Hoàng Vân chuyển toàn bộ tài liệu, vật chứng cùng đối tượng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 17/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa ra quyết định số 67/QĐ trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định đối với tang vật thu giữ của Kiệm được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”. Tại Kết luận giám định số 606/KL- KTHS ngày 18/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

“Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

- Các mảnh vỡ của viên nén màu hồng đỏ đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền màu đỏ là ma túy, có khối lượng 0,049 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 đoạn ống nhựa màu cam được hàn kín hai đầu là ma túy, có khối lượng 0,127 gam, loại Methamphetamine”. (BL 15 - 18).

Về nguồn gốc ma túy, Nguyễn Văn K khai: Buổi chiều ngày 16/5/2020, Nguyễn Văn K đến nhà bạn là chị Lê Thị Ngân để chơi. Sau khi ăn cơm tối xong, chị Lê Thị Ngân đi chơi, Kiệm tự ý lấy xe mô tô của chị Lê Thị Ngân để đi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, Kiệm điều khiển xe đến địa phận thôn Ngọc Thành, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa. Kiệm gặp một người phụ nữ tên là Thúy (Kiệm không biết tuổi, địa chỉ của người này). Kiệm hỏi mua 200.000 đồng ma túy của Thúy. Thúy đồng ý. Kiệm đưa cho Thúy 200.000 đồng, Thúy đưa cho Kiệm 01 đoạn ống nhựa màu cam được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá và 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa có đường viền màu đỏ bên trong 01 viên nén màu hồng đỏ là ma túy (loại ngựa). Sau khi mua được ma túy, Kiệm điều khiển xe mô tô về nhà của chị Ngân. Thấy không có ai ở nhà, Kiệm vào phòng của chị Ngân sử dụng 1 nửa viên ma túy ngựa, phần còn lại và đoạn ống nhựa màu cam được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng Kiệm cất dấu vào phích đựng đá màu vàng ở trong phòng chị Ngân. Đến 22 giờ 10 cùng ngày, Kiệm bị Công an xã Hoàng Vân kiểm tra và bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Cáo trạng số 56/CT-VKS-HH ngày 10/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2, Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn K từ 18 tháng tù đến 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/5/2020.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3,Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư có ký hiệu là “QT” bên trong chứa chất ma túy; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4, Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng.... không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]: Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều thừa nhận: Khoảng 22 giờ 10 ngày 16/5/2020 tại gia đình của chị Lê Thị Ngân, sinh năm 1989 ở thôn Lạc Yên 1, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Nguyễn Văn K, sinh năm 1987 ở thôn Đồng Đậu, xã Tân Khánh, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đang có hành vi tàng trữ 0,176 gam ma túy Methamphetamine thì bị Công an xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa bắt quả tang. Kiệm khai mục đích tàng trữ số ma túy trên để sử dụng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng có mặt tại phiên tòa hôm nay, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… trái phép chất ma tuý. Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này.

Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm. Việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân bị cáo mà còn gây tổn thất về kinh tế cho gia đình, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội nên cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng của bị cáo thì thấy: Mặc dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Tuy nhiên các năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2015 bị Công an huyện Phú Bình, Thái Nguyên xử phạt số tiền 7.500.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Xét thấy bị cáo đã bị Tòa án xét xử nhiều lần xong bị cáo không lấy đó làm bài học để cải sửa cho bản thân, nay lại dấn thân vào con đường phạm tội, chứng tỏ bị cáo là tên khó giáo dục. Do vậy cần phải xét xử nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Như vậy mới đảm bảo tính răn đe của pháp luật.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần khi lượng hình.

[6]. Xét về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, là đối tượng nghiện ma túy do đó cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]. Đối với người phụ nữ tên Thúy, theo Kiệm khai đã bán ma túy cho Kiệm: Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại thôn Ngọc Thành, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa kết quả không có người phụ nữ có đặc điểm như Kiệm đã khai, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với người này.

[8]. Về vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì thư có ký hiệu là “QT” bên trong chứa chất ma túy là vật chứng của vụ án, cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen là tài sản của Kiệm không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[9]. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Nguyễn Văn K 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/5/2020.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì có ký hiệu “QT bên trong chứa chất ma túy”.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về