Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kỳ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp về nuôi con, tài sản của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020.

- Nguyên đơn: Chị Kha Thị S, sinh năm 1986. Có mặt.

Địa chỉ cư trú: Bản XT, xã HL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Vi Văn Th, sinh năm 1984. Có đơn xin xử vắng mặt. Nơi ĐKNK: Bản XT, xã HL, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

Chỗ ở hiện nay: Cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện huyện Kỳ Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 14/7/2020, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Kha Thị S trình bày:

Về quan hệ tình cảm: Chị và anh Vi Văn Th tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004, không đăng ký kết hôn tại UBND xã, thị trấn mà chỉ tổ chức lễ cưới, mời hai họ, anh em tới dự lễ cưới theo phong tục của đồng bào dân tộc tại địa phương. Sau thời gian chung sống khoảng được một thời gian thì giữa chị và anh Th bắt đầu xảy ra mẫu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình, suy nghĩ, anh Th không quan tâm, chăm sóc chị, anh Th nghiện ma túy đi cai nghiện năm 2012 nhưng sau khi trở về vẫn không tiến bộ, đến năm 2019 thì bị tiếp tục đưa đi cai nghiện với thời gian 24 tháng. Nay chị không còn tình cảm với anh Th nên không muốn tiếp tục chung sống đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố chị và anh Th không phải là vợ chồng.

Về con chung: Chị và anh Th có 02 con chung: Vi Văn Th, sinh ngày 26/8/2005 và Vi Văn M sinh ngày 10/11/2007. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Vi Văn Th trình bày:

Về quan hệ tình cảm: Anh thừa nhận về thời điểm hai người tự nguyện chung sống, không đi đăng ký kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán đúng như chị S trình bày. Lý do hai người không đi đăng ký kết hôn là do không hiểu biết pháp luật. Sau khi tổ chức lễ cưới theo phong tục của người Thái thì cuộc sống chung giữa anh và chị S diễn ra hạnh phúc bình thường, không có mâu thuẫn gì. Nay anh đang còn tình cảm với chị S nên muốn hai người tiếp tục chung sống với nhau đồng thời sau khi anh hết thời gian cai nghiện sẽ làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh và chị Kha Thị S có 02 con chung: Vi Văn Th, sinh ngày 26/8/2005 và Vi Văn M sinh ngày 10/11/2007. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành và không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp; Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc thuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 239 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 9, 14, 15, 52, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Về hôn nhân: Chị Kha Thị S và anh Vi Văn Th không phải là vợ chồng:

Về con chung: Giao con chung Vi Văn Th, sinh ngày 26/8/2005 và Vi Văn M sinh ngày 10/11/2007 cho chị Kha Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Th do chị S không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Kha Thị S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Chị Kha Thị S yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận chị và anh Vi Văn Th là vợ chồng có địa chỉ cư trú tại xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về “Tranh chấp về nuôi con của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn theo quy định tại khoản 7 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt cho đương sự hợp lệ. Nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn đang tập trung cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện huyện Kỳ Sơn không thể tham gia phiên tòa và có đơn xin xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tình cảm chung sống với nhau như vợ chồng: Chị S và anh Th tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004 đến nay không đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà chỉ làm lễ cưới theo phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số nên theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình thì quan hệ giữa chị S và anh Th không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của vợ và chồng. Sau thời gian chung sống với nhau thì giữa hai người có phát sinh mâu thuẫn do anh Th nghiện ma túy đi cai nghiện nên đã không còn chung sống với nhau, nay chị S không còn tình cảm với anh Th không muốn tiếp tục duy trì cuộc sống chung. Mặc dù nguyện vọng của anh Th là muốn tiếp tục duy trì cuộc sống chung và sẽ làm các thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định nhưng chị S lại không đồng ý. Xét thấy, việc chung sống, thời gian chung sống giữa chị S và anh Th là đúng thực tế, cả hai không đăng ký kết hôn nên căn cứ các Điều 9, 14 của Luật Hôn nhân và gia đình thì chị Kha Thị S và anh Vi Văn Th không phải là vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị Kha Thị S và anh Vi Văn Th trong thời gian chung sống chung có 02 con chung: Vi Văn Th, sinh ngày 26/8/2005 và Vi Văn M sinh ngày 10/11/2007 hiện nay các con chung đang do chị S chăm sóc nuôi dưỡng. Cả chị S và anh Th đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét thấy nguyện vọng của cả hai người là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, anh Vi Văn Th là người nghiện ma túy, hiện nay đang còn cai nghiện tập trung tại Cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện huyện Kỳ Sơn nên không có điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con, đồng thời việc giao con chung cho anh Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung sẽ không đảm bảo cho việc phát triển toàn diện của các con. Vì vậy việc giao cho chị S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là hoàn toàn phù hợp.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị Kha Thị S không yêu cầu anh Vi Văn Th cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Th do chị S không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Kha Thị S và anh Vi Văn Th không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Kha Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Kha Thị S.

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Kha Thị S và anh Vi Văn Th là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao con chung Vi Văn Th, sinh ngày 26/8/2005 và Vi Văn M sinh ngày 10/11/2007 cho chị Kha Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Vi Văn Th do chị Kha Thị S không yêu cầu.

Anh Vi Văn Th có quyền, nghĩa vụ chăm sóc con chung không ai được cản trở. Trường hợp chị S là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con không đảm bảo thì anh Th có quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi ngưởi trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Chị Kha Thị S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003873 ngày 23/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. (Chị S đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm).

3. Về quyền kháng cáo: Chị Kha Thị S có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Vi Văn Th vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:54/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về