Bản án 54/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Lê Thị T, sinh ngày 01/01/19… tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; nơi cư trú: …, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; trình độ văn hoá: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Chu Thị Đ; có chồng là Nguyễn Văn H; có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 10/9/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử phạt 18 tháng tù cho hướng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án và được đương nhiên xóa án tích; hiện tại ngoại; có mặt.

* Bị hại:

1) Ông Đào Văn Đ, sinh năm: 19…; địa chỉ: …, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2) Bà Hà Thị H, sinh năm: 19…; địa chỉ: …, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

3) Anh Đào Duy H, sinh năm: 19…; địa chỉ: …, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T; sinh năm: 19…; địa chỉ: …, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 27/01/2019, Lê Thị T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Santafe biển kiểm soát: 34A-187.88 của con trai đi từ nhà đến thị xã Quảng Yên để mua thuốc chữa bệnh. Khoảng 09 giờ cùng ngày, T về đến khu vực ngã ba sông Khoai thuộc tổ 1, khu Nam Tân, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, T dừng xe đi vào cửa hàng tạp hóa của vợ chồng bà Hà Thị H, ông Đào Văn Đ hỏi mua bánh mỳ, thẻ điện thoại và bia. Khi thấy vợ chồng ông Đ, bà H đang mải bán hàng cho khách, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T đi vào phía trong cửa hàng, vào phòng ngủ phía tay phải gần bếp thì thấy 01 chiếc Ipad Air 2 - 32G màu vàng đồng của anh Đào Duy H (con trai bà H) để trên bàn gần cửa ra vào. T lấy chiếc Ipad giấu vào trong áo khoác phía trước bụng rồi đi ra ngoài. Lúc này, thấy vợ chồng bà H vẫn đang bán hàng cho khách, T đến tủ kính để thuốc lá lấy 02 cây thuốc lá ba số “555” và 02 cây thuốc lá nhãn hiệu Hero cho vào túi nilon. Sau đó, T đem tất cả số tài sản trộm cắp được ra xe ô tô, rồi điều khiển xe đi về nhà. Khoảng 12 giờ 15 phút, anh Đào Duy H đi về nhà phát hiện mất chiếc Ipad. Anh H kiểm tra camera giám sát tại cửa hàng, thì phát hiện T là người trộm cắp, nên đã trích xuất video đăng lên mạng xã hội. Sau khi xem được đoạn video, biết hành vi đã bị phát hiện, T đã đến Công an phường Nam Khê, thành phố Uông Bí đầu thú, giao nộp vật chứng gồm: 01 chiếc Ipad Air 2 – 32G; 02 cây thuốc lá nhãn hiệu Hero; 01 cây thuốc nhãn hiệu “555” và 05 bao thuốc nhãn hiệu “555”.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 12/02/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Uông Bí kết luận: 01 chiếc Ipad Air 2 - 32G, màu vàng đồng, đã qua sử dụng có giá trị 5.000.000 đồng; 02 cây thuốc lá nhãn hiệu Hero có giá trị 400.000 đồng và 02 cây thuốc lá nhãn hiệu “555” có giá trị 700.000 đồng; Tổng giá trị tài sản định giá là 6.100.000 đồng.

Quá trình điều tra, bị cáo đã hoàn trả tài sản trộm cắp và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Bà H, anh H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu gì khác.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp và việc truy tố, đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo đã bồi thường xong thiệt hại cho gia đình bị hại, bản thân bị cáo đang ốm đau, bệnh tật phải điều trị tại bệnh viện, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội tiếp tục chữa bệnh, cải tạo tại địa phương.

Quá trình điều tra, người làm chứng cũng có lời khai về nội dung sự việc đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 61/CT-VKSUB ngày 22 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Lê Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị T về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thị T từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Lê Thị Th cho Ủy ban nhân dân phường Xuân Sơn, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng bị thu giữ: đoạn video ghi lại từ camera giám sát nhà bà H, tài sản trộm cắp và Bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 12/02/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 27/01/2019, tại cửa hàng tạp hóa của gia đình bà Hà Thị H thuộc tổ 1, khu Nam Tân, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo Lê Thị T có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp 01 chiếc Ipad Air 2 - 32G của anh Đào Duy H trị giá 5.000.000 đồng, 02 cây thuốc lá nhãn hiệu Hero trị giá 400.000 đồng và 02 cây thuốc lá nhãn hiệu “555” của gia đình bà H trị giá 700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 6.100.000đ (sáu triệu một trăm nghìn đồng). Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo là có cơ sở pháp luật.

[3] Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an ở địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh.

[5] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã chủ động bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; được bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

[6] Về hình phạt chính: Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, bị kết án nhưng đã hơn 12 năm được đương nhiên xóa án tích, phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hậu quả gây thiệt hại không lớn, có nơi cư trú rõ ràng, theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý giáo dục với một thời gian thử thách phù hợp, điều đó cũng đáp ứng được mục đích của hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Nhưng xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về việc bồi thường thiệt hại: Giai đoạn điều tra, các bên đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại và cam kết không có khiếu kiện gì. Xét thấy: đây là quan hệ dân sự, các bên tự nguyện thỏa thuận không trái với pháp luật và đạo đức xã hội, Hội đồng xét xử chấp nhận và không tiếp tục giải quyết.

[9] Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí đã xử lý, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[10] Đối với anh Nguyễn Văn T (con trai bị cáo) không biết bị cáo điều khiển xe ô tô của mình đi phạm tội nên không có cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này theo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; các điểm b và s của khoản 1, khoản 2 Điều 51; các khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Thị T 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Thị T cho Ủy ban nhân dân phường Xuân Sơn, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình bị cáo được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Thị T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 15/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về