Bản án 54/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2019/HSST ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng L; sinh ngày 26/11/1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Đường A, Phường B, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng T (chết) và bà Đoàn Thị H.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 07/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn chấp hành là 18 tháng. Chấp hành xong vào ngày 17/9/2017.

Bắt tạm giam ngày 24/4/2019 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 23/4/2019, Hoàng L điện thoại cho đối tượng tên L1 (không rõ lai lịch) hỏi mua 01 gói ma túy với giá 450.000 đồng và hẹn giao hàng tại hẻm C, Đường A, Phường B, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi Hoàng L đi bộ đến địa điểm giao hàng thì L1 đưa 01 gói nylon chứa ma túy rồi nhận 450.000 đồng. Sau khi trả tiền xong, L cất giấu ma túy ở túi quần phía trước bên phải rồi đi về nhà lên phòng riêng, để gói ma túy trên bàn và đi ngủ. Đến 13 giờ 30 phút ngày 24/4/2019, L lấy gói ma túy trên bàn bỏ vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe gắn máy hiệu G biển số H đến nhà bạn tại khu vực hồ bơi D, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng. Khi L đi đến trước nhà số L22 Đường E, Phường F, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 4 phát hiện thu giữ vật chứng rồi đưa về trụ sở Công an Phường F, Quận 4 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 961/KLGĐ-H ngày 02/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6405g (không phẩy sáu bốn không năm gam), loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Hoàng L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu.

Đối với đối tượng tên L1 bán ma túy cho L do không xác định nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Hoàng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Hoàng L thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ một phần hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 phát biểu và kết luận cáo trạng đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Hoàng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị xử phạt Hoàng L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam; phạt tiền bổ sung đối với bị cáo 5.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số 961 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho Hoàng L 01 điện thoại di động hiệu X màu vàng đen, số IMEI 1: Y, số IMEI 2: Z đã qua sử dụng; trả lại cho Hoàng L 01 xe gắn máy hiệu G màu xám, biển số H đã qua sử dụng, số máy I, số khung: K do L không sử dụng xe gắn máy để đi mua ma túy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Hoàng L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24/4/2019, tại trước nhà số L22 Đường E, Phường F, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng L đã có hành vi cất giấu 0,6405 gam (không phẩy sáu bốn không năm gam) ma túy loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo Hoàng L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nghiêm tr ng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Hoàng L không có tiền án và có 01 tiền sự. Bản thân bị cáo Lâm là đối tượng nghiện ma túy đã bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian chấp hành là 18 tháng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đối với bị cáo để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Thu giữ của Hoàng L 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 961 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định. Xét, đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Thu giữ của Hoàng L 01 (một) xe gắn máy hiệu G màu xám, biển số H đã qua sử dụng, số máy I, số khung: K. Xét, đây không phải là phương tiện được bị cáo sử dụng để đi mua ma túy và cũng không phải là công cụ được bị cáo sử dụng để tàng trữ, cất giấu ma túy nên trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Thu giữ của Hoàng L 01 (một) điện thoại di động hiệu X màu vàng đen, số IMEI 1: Y, số IMEI 2: Z đã qua sử dụng. Xét, đây là tài sản cá nhân của Hoàng L không liên quan đến tội phạm nên trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Hoàng L, 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 4 năm 2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Phạt tiền bị cáo Hoàng L 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 961 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định;

+ Trả lại cho Hoàng L 01 (một) xe gắn máy hiệu G màu xám, biển số 59C2-488.41 đã qua sử dụng, số máy I, số khung: K;

+ Trả lại cho Hoàng L 01 (một) điện thoại di động hiệu X màu vàng đen, số IMEI 1: Y, số IMEI 2: Z đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng được tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/7/2019 giữa Công an Quận 4 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phíBị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

 2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về