TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 54/2019/HSPT NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 530/HSPT ngày 04/12/2018 đối với bị cáo Phạm Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2018/HSST ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Minh T; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1991 tại tỉnh Đồng Nai; Thường trú: số 70 đường số 1, ấp Q, xã W, huyện E, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn N và bà Huỳnh Thị P; Hoàn cảnh gia đình: có vợ là bà Nguyễn Ngọc My N; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
Những người tham gia tố tụng khác:
- Người bào chữa: Ông Phạm Văn Sửu là luật sư của Văn phòng luật sư Hữu Liên thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trung - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Minh T là tài xế của Công ty TNHH Sản xuất Dịch vụ Thương mại Xuất nhập khẩu Minh Quang (sau đây gọi là Công ty Minh Quang).
Khoảng 14 giờ, ngày 24/01/2018, T điều khiển xe ô tô biển số 51C- 705.28 của Công ty Minh Quang chở ông Nguyễn Minh Hiếu và ông Trần Văn Tiến đến đại lý Thu Thảo tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn để giao hàng. Sau khi giao hàng, ông Hiếu nhận tiền hàng 187.750.000 đồng cùng hóa đơn rồi bỏ số tiền này vào túi ni lông và cất vào trong cốp xe trước ghế phụ của xe ô tô biển số 51C-705.28.
Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T tiếp tục điều khiển xe chở ông Hiếu và ông Tiến đến kho của Công ty Minh Quang tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn để lấy hàng đi giao. Lúc này, T nảy sinh ý định lấy trộm số tiền mà ông Hiếu cất trong xe nhưng do lúc đó có nhiều người nên không thực hiện được.
Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T điều khiển xe ô tô chở ông Hiếu và ông Tiến đến đại lý Anh Đen tại địa chỉ F12/6 ấp 6A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh để giao hàng. Lợi dụng lúc ông Hiếu và ông Tiến xuống xe ăn uống và nghỉ ngơi, T mở cốp xe lấy túi ni lông đựng tiền, giấu vào trong người rồi đi qua phía bên kia đường cất túi tiền phía sau thùng đựng nước đá ở cạnh cột điện bên lề đường. Sau khi ông Hiếu và ông Tiến giao hàng xong, T điều khiển xe về lại Công ty Minh Quang. Đi được một đoạn, ông Hiếu mở cốp xe thì phát hiện túi tiền bị mất nên yêu cầu T cho xe quay lại đại lý Anh Đen để tìm. Đến nơi, ông Hiếu, ông Tiến và ông Phạm Minh Quang (chủ đại lý Anh Đen) tìm xung quanh nhưng không thấy.
Đến 21 giờ cùng ngày, T cùng ông Hiếu và ông Tiến quay về Công ty Minh Quang, còn ông Quang tiếp tục tìm đến 22 giờ cùng ngày thì phát hiện một túi ni lông được cất giấu phía sau thùng đựng nước đá ở bên kia đường (đối diện đại lý Anh Đen), bên trong chứa tiền và 03 hóa đơn bán hàng, ông Quang liền gọi điện thông báo cho bà Phạm Thị Mỹ Trang là Phó Giám đốc Công ty Minh Quang biết.
Phạm Minh T sau khi về công ty Minh Quang cất xe thì đến nhà bạn gái ở ấp 6, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, huyện Bình Chánh để nghỉ. Đến 22 giờ cùng ngày, T thuê xe taxi trở lại đại lý Anh Đen để lấy túi tiền đã cất giấu trước đó nhưng không tìm thấy nên quay về.
Khoảng 08 giờ, ngày 25/01/2018, ông Hiếu đến Công an thị trấn Hóc Môn trình báo sự việc bị mất trộm tiền. Cơ quan công an đã mời T đến làm việc, tại đây, T thừa nhận đã lấy trộm số tiền 187.750.000 đồng của ông Hiếu. Ngày 26/01/2018, ông Quang đã giao nộp số tiền nêu trên cho Công an huyện Hóc Môn. Do vụ việc xảy ra trên địa bàn huyện Bình Chánh nên Công an huyện Hóc Môn đã chuyển hồ sơ cùng vật chứng đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh xử lý theo thẩm quyền.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2018/HSST ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017.
Xử phạt: Phạm Minh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/10/2018 bị cáo Phạm Minh T có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo thực hiện đã cho rằng:
Bị cáo Phạm Minh T đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 03 (ba) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Minh T có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Xét thấy, bị cáo Phạm Minh T có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 187.750.000 đồng. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Mức hình phạt 03 (ba) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin được giảm án, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, để có thể xem xét cho bị cáo được giảm hình phạt tù.
Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh T mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Phạm Minh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Luật sư bào chữa cho bị cáo T tranh luận: bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, người bị hại đã nhận lại tài sản nên hậu quả thiệt hại chưa xảy ra. Ngoài ra, gia đình bị cáo có công với cách mạng, cha tham gia chiến đấu tại Campuchia, mẹ bị bệnh, vợ đang mang thai, bị cáo có việc làm ổn định, có nơi cư trú rõ ràng nên cần áp dụng thêm điểm h, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự mà bản án sơ thẩm chưa áo dụng cho bị cáo T. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
Kiểm sát viên tranh luận: việc chưa gây thiệt hại là ngoài ý muốn của bị cáo, bị cáo đã lấy số tiền lớn bỏ vào trong người rồi xuống xe đi qua phía bên kia đường để cất giấu chờ đến tối thì tới địa điểm giấu tiền để lấy nên tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo có vợ đang mang thai không thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, còn gia đình bị cáo có công với cách mạng thì do Hội đồng xét xử xem xét. Tuy nhiên, đại diện Viện kiểm sát giữa nguyên quan điểm đề nghị của mình và không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Minh T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị cáo Phạm Minh T có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nên đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 173 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/10/2018 bị cáo Phạm Minh T có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:
Bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” với số tiền chiếm đoạt là 187.750.000 đồng của ông Nguyễn Minh Hiếu. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo T 03 (ba) năm tù.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp với quy định của pháp luật. Việc luật sư cho rằng cần áp dụng thêm điểm h, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo T là không phù hợp. Bởi vì, việc chưa gây thiệt hại là ngoài ý muốn của bị cáo do ông Phạm Minh Quang đã tìm ra túi tiền trước khi bị cáo tới lấy tiền để tiêu xài. Còn cha của bị cáo tham gia chiến đấu tại Campuchia cũng không thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Minh T là phù hợp.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Phạm Minh T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Phạm Minh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 54/2019/HSPT ngày 25/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 54/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về