Bản án 54/2018/HSST ngày 25/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 54/2018/HSST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Huỳnh Quang V (tên gọi khác: T), sinh ngày 25-12-1989, tại Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ 03, phường C, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12.

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi T, sinh năm 1961 và bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1964. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 20-9-2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; đến ngày 15-12-2017 chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: 04 tiền sự:

- Ngày 27-12-2012 bị đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng theo quyết định số 2165/QĐ-UB ngày 24-12-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và hủy hoại tài sản”; đến ngày 17-9-2014 chấp hành xong;

- Từ ngày 20-9-2015 đến ngày 06-11-2015 04 lần thực hiện hành vi gây mất trật tự ở khu dân cư, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường trong thời hạn 03 tháng theo Quyết định số 21/QĐ-UBND ngày 15-01-2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường C; đến ngày 15-4-2016 chấp hành xong;

- Ngày 22-02-2016 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị Công an phường Q xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 11/QĐ-XPVPHC ngày 24-02-2016.

- Ngày 25-02-2016 tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị Công an phường Q xử phạt 1.000.000đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 19/QĐ-XPVPHC ngày 18-3-2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20-7-2018 đến nay. Bị cáo hiện đang bị tạm giam; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Bá N, sinh năm 1962; nơi cư trú: Tổ 24, phường Quảng Phú, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần T, sinh năm 1967; nơi cư trú: Tổ 05, Phường Lê H1 Phong, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1964; nơi cư trú: Tổ 08, phường Nghĩa Chánh, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

3. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1956; nơi cư trú: 175/7 Lê Lợi, phường Chánh Lộ, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Ông N và bà H có mặt; ông T và bà H1 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 18-7-2018, Huỳnh Quang V điều khiển xe mô tô hiệu WayThai, biển kiểm soát 76B1-036.45 đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi để tìm tài sản trộm cắp. Khi đến phòng 503 tại tầng 5 Khoa Nội tổng hợp, V thấy cửa phòng mở nên đi vào. Lúc này, có ông Nguyễn Bá N đang ngủ trên giường bệnh và chị Trần Thị L (vợ của ông N) nằm bên cạnh, ông N có để 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trên đầu giường, V lén lấy điện thoại nêu trên của ông N rồi tẩu thoát. Đến 09 giờ ngày 18-7-2018, V mang điện thoại nêu trên đến tiệm cầm đồ tại số 147 Quang Trung, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (do anh Trần T làm chủ) cầm cố được 150.000đồng.

Ngày 20-7-2018, V tiếp tục điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76B1- 036.45 đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi để trộm cắp tài sản, nhưng V chưa lấy được tài sản gì thì bị bảo vệ của Bệnh viện mời làm việc, sau đó giao cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi.

Tại bản kết luận định ngày 27-7-2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, Model: TA-1034, trị giá 200.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 27-9-2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Huỳnh Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Quang V từ 12 đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô hiệu WayThai, biển kiểm soát 76B1036.45 do bà Nguyễn Thị Thanh H là người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe, đầu năm 2018 bà H nhờ chị gái là bà Nguyễn Thị H1 bán xe mô tô trên cho Huỳnh Quang V với giá 1.500.000đồng. Ngày 18-7-2018 V đã sử dụng xe mô tô nêu trên làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, sung ngân sách nhà nước.

- Đối với hợp đồng cầm cố giữa Huỳnh Quang V và ông Trần T kèm theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, Model: TA-1034, kèm theo sim. Đây là tài sản của ông Nguyễn Bá N nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông N là phù hợp.

Đối với số tiền 150.000đồng là tiền V cầm cố tài sản cho ông Trần T mà cónên Cơ quan điều tra đã trả lại  số tiền trên cho ông T là phù hợp.

Về dân sự: Bị hại ông Nguyễn Bá N đã nhận lại tài sản bị trộm cắp; ông Trần T đã nhận lại số tiền 150.000đồng đã giao cho bị cáo V và không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Quang V và những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tòa án đã triệu tập hợp lệ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần T, bà Nguyễn Thị H1 tham gia phiên tòa nhưng ông T, bà H1 vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra ông T, bà H1 đã có lời khai nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại các điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

 [3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Huỳnh Quang V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 01 giờ ngày 18-7-2018, tại phòng 503 tầng 5 Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, Huỳnh Quang V đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của ông Nguyễn Bá N để trên đầu giường.

 [4] Bị cáo Huỳnh Quang V là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Mặc dù giá trị tài sản mà V đã trộm cắp của ông N được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi kết luận là 200.000đồng, nhưng do ngày 20-9-2016 bị cáo đã kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích và đã bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo V về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [5] Hành vi của bị cáo Huỳnh Quang V là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bệnh và người nhà của họ trong việc quản lý tài sản khi đang điều trị tại bệnh viện để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an N, trật tự xã hội tại địa phương, gây tâm lý Hng mang cho những người đang cần có sự chăm sóc, điều trị tại bệnh viện. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng và đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không biết ăn năn, hối cải nên đã tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo Huỳnh Quang V là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc và cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

 [6] Tuy bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng do tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm nên không áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.

 [7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Quang V đã thành khẩn khai báo về toàn bộ hành vi phạm tội của mình; tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

 [8] Về dân sự: Ông Nguyễn Bá N đã nhận lại tài sản bị trộm cắp; ông Trần T đã nhận lại số tiền 150.000đồng mà ông T đã giao cho bị cáo V để cầm cố tài sản. Ông N và ông T không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô hiệu WayThai, biển kiểm soát 76B1036.45 do bà Nguyễn Thị Thanh H là người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe, đầu năm 2018 bà H nhờ chị gái là bà Nguyễn Thị H1 bán xe mô tô trên cho Huỳnh Quang V với giá 1.500.000đồng. Do đó, xe mô tô nêu trên thuộc sở hữu của Huỳnh Quang V. Ngày 18-7-2018 V đã sử dụng xe mô tô nêu trên làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản nên cần tịch thu, sung ngân sách nhà nước.

- Đối với hợp đồng cầm cố giữa Huỳnh Quang V và ông Trần T kèm theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, Model: TA-1034, kèm theo sim. Đây là tài sản của ông Nguyễn Bá N nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông N là phù hợp.

Đối với số tiền 150.000đồng là tiền V cầm cố tài sản cho ông Trần T mà có nên Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền trên cho ông T là phù hợp.

 [10] Về án phí: Bị cáo Huỳnh Quang V phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Quang V 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20-7-2018.

2. Về dân sự: Ông Nguyễn Bá N đã nhận lại tài sản bị trộm cắp; ông Trần T đã nhận lại số tiền 150.000đồng mà ông T đã giao cho bị cáo V để cầm cố tài sản. Ông N và ông T không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu, sung ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô hiệu WayThai, biển kiểm soát 76B1-036.45 do bà Nguyễn Thị Thanh H là người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24-10-2018 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Huỳnh Quang V phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo Huỳnh Quang V, bị hại ông Nguyễn Bá N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần T, bà Nguyễn Thị H1 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HSST ngày 25/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về