Bản án 541/2020/HSST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 541/2020/HSST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 516/2020/HSST ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 670/2020/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Trọng D, tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày: 04 tháng 9 năm 1997; tại huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm L Đ, xã Th L, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; họ và tên cha: Nguyễn Trọng N; Sinh năm 1974; họ và tên mẹ: Lê Thị L; sinh năm 1975; hiện đều trú tại: Xóm L Đ, xã Th L, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; vợ: Moong Thị Ph; sinh năm 1998; con: Chưa có; tiền án: Ngày 27/2/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt ra tù ngày 26/10/2019; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 8 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An.

2. Họ và tên: Phan Bá T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày: 22 tháng 4 năm 1995; tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm L Đ, xã Th L, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; họ và tên cha: Phan Bá Cường; Sinh năm 1972; họ và tên mẹ: Lê Thị Hợi; sinh năm 1971; hiện đều trú tại: Xóm L Đ, xã Th L, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; vợ: Kha Thị Thu Hương; Sinh năm 1995; con: Phan Bá Hoàng L, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 8 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 02 tháng 8 năm 2020, Nguyễn Trọng D và Phan Bá T ngồi uống rượu với Lữ Thị Tr, sinh năm 2000, HKTT: Bản Th 1, xã M N, huyện Q Ph, tỉnh Nghệ An và một số người bạn mới quen tại quán bia số 7 đường Hồ Tùng Mậu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Trong quá trình ngồi uống bia Nguyễn Trọng D rủ mọi người góp tiền đi hát karaoke và mua ma túy (thuốc lắc) sử dụng nhưng mọi người không đồng ý, lúc đó Phan Bá T bàn với Nguyễn Trọng D góp tiền mua ma túy đá về sử dụng, D đồng ý. Sau đó Phan Bá T đưa cho Nguyễn Trọng D 500.000đ ( Năm trăm ngàn đồng) để đi mua ma túy, D góp thêm 700.000đ ( Bảy trăm ngàn đồng) để đi mua ma túy. Sau khi có tiền Nguyễn Trọng D gọi điện cho một nam thanh niên tên Long ( D không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy, Long đồng ý và hẹn D đến khu vực cầu Kênh Bắc, thành phố Vinh để trao đổi mua bán ma túy. Thống nhất xong Nguyễn Trọng D đi xe lai đến điểm hẹn gặp và mua của Long 01 gói ma túy đá với giá 1.200.000đ (Một triệu hai trăm ngàn đồng). Sau khi mua được ma túy Nguyễn Trọng D cất dấu trong người rồi đi xe tắc xi đến đón Phan Bá T để đi tìm nơi sử dụng ma túy. Đến 23 giờ 00 ngày 02/8/2020 khi Phan Bá T, Nguyễn Trọng D đi đến khu vực trước nhà Nghỉ Sao Đêm thuộc khối Văn Tiến, phường Hưng Dũng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an thì bị tổ công tác của Công an phường Bến Thủy, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an kiểm tra phát hiện bắt quả tang, Nguyễn Trọng D ném gói ma túy xuống đất và bỏ chạy nhưng bị bắt, thu giữ của D và T 01 (một) gói nhỏ được gói ngoài bằng bao potylen màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, tổ công tác đã dẫn giải D và T cùng tang vật về trụ sở Công an phường Bến Thủy, thành phố Vinh lập biên bản bắt người phạm pháp quả tang. Qúa trình điều tra Nguyễn Trọng D và Phan Bá T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận giám định số 1120/KL-PC09(Đ2-MT), ngày 07/ 8/ 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An xác định: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của NguyễnTrọng D và Phan Bá Tăng gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Trọng D và Phan Bá T có khối lượng là 0,450 gam (không phẩy bốn trăm năm mươi gam).

Vật chứng vụ án: Thu giữ của Nguyễn Trọng D và Phan Bá T 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,450 gam (không phẩy bốn trăm năm mươi gam), sau khi lấy mẫu đi giám định khối lượng còn lại là 0,250 (không phẩy hai trăm năm mươi gam). Thu giữ của Nguyễn Trọng Dg 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A230, vỏ màu đen, có số thuê bao 0363055114. Thu giữ của Phan Bá T 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh, có số thuê bao 0387949706. Toàn bộ vật chứng vụ án được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh.

Tại Bản cáo trạng số 545/CT-VKS-TPV ngày 26/107/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Nguyễn Trọng D, Phan Bá T về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D từ 18 đến 21 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1,2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Bá T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

Ngoài ra, còn đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và xử lý vật chứng là: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ vật chứng của Nguyễn Trọng D, Phan Bá T. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A230 vỏ màu đen, đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu Realme vỏ màu xanh, máy đã qua sử dụng, các vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự (Vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK 2021/36 ngày 04/11/2020).

Tại phiên tòa ngày hôm nay, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo Nguyễn Trọng D, Phan Bá T khai nhận như sau: Vào hồi 23 giờ 00 phút, ngày 02 tháng 8 năm 2020, tại khu vực trước nhà Nghỉ Sao Đêm thuộc khối Văn Tiến, phường Hưng Dũng, TP Vinh, tỉnh Nghệ an; Nguyễn Trọng D và Phan Bá T đang có hành vi đồng phạm tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Bến Thủy, thành phố Vinh, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của D và T 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,450 gam (không phẩy bốn trăm năm mươi gam).

Như vậy, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.

Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi phạm tội của Nguyễn Trọng D, Phan Bá T đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố các bị cáo Nguyễn Trọng D, Phan Bá T theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2]. Vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện như ma túy tổng hợp(Methamphetamine). Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước đang kiên quyết đấu tranh nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi cộng đồng xã hội. Bản thân các các bị cáo nhận thức được ma túy là chất độc hại, Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển nhưng vẫn liều lĩnh thực hiện hành vi phạm tội, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.

Bị cáo Nguyễn Trọng D phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Phan Bá T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Trọng D, Phan Bá T có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo, gia đình Phan Bá Tăng có công với cách mạng nên áp dụng khoản 2 điều 51 BLHS đối với bị cáo.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đ đến 500.000.000 đồng nhưng xét thấy các bị cáo hiện nay không có công ăn việc làm ổn định, tài sản riêng không có gì nên miễn cho các bị cáo.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ vật chứng của Nguyễn Trọng D, Phan Bá T. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A230 vỏ màu đen, đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu Realme vỏ màu xanh, máy đã qua sử dụng, các vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự (Vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK 2021/36 ngày 04/11/2020).

[2.5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[2.6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1].Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Trọng D, Phan Bá T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 03/08/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Bá T 15 (mười lăm) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 03/08/2020.

[2]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ vật chứng của Nguyễn Trọng D, Phan Bá T. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A230 vỏ màu đen, đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu Realme vỏ màu xanh, máy đã qua sử dụng, các vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự (Vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK 2021/36 ngày 04/11/2020).

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Trọng D, Phan Bá T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 541/2020/HSST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:541/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về