Bản án 540/2017/HS-PT ngày 10/10/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 540/2017/HS-PT NGÀY 10/10/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 333/2017/TLPT-HS ngày 05 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo Hứa Kim L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo Hứa Kim L đối với bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 24/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Bị cáo có kháng cáo:

Hứa Kim L, giới tính: nữ, sinh năm 1985; thường trú: Ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Hứa Văn C; Con bà: Lâm Thị H; Chồng: Đinh Trung T và có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 29/9/2016 cho đến nay. (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Ngô Đình C1, luật sư của Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau. (có mặt)

 (Trong vụ án người liên quan, người bị hại không kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2013, Hứa Kim L làm chủ hụi mở các dây hụi gồm: Hụi 20.000 đồng/ ngày, hụi 50.000 đồng/ngày, hụi 100.000 đồng/10 ngày, hụi 200.000 đồng/15 ngày, hụi 500.000 đồng/15 ngày, hụi 1.000.000 đồng/tháng cho những người quen biết tham gia, L được hưởng tiền hoa hồng (tiền cò) trực tiếp trên các dây hụi. Quá trình làm chủ hụi, L không gửi danh sách hụi cho các hụi viên, không tổ chức khui thăm, tự ý hốt hụi, gom tiền và bán những chân hụi khống cho người khác lấy tiền tiêu xài cá nhân. Từ đó L đã thâm nợ rất nhiều nên sau khi mãn các dây hụi trước, L tiếp tục mở nhiều dây hụi nữa để tiếp tục lấy hụi của các hụi viên hốt và bán hụi khống lấy tiền lấp cho số tiền mà L đã hốt của các hụi viên trước đó. Từ ngày 22/6/2014 (nhằm ngày 25/5/2014 âm lịch) đến ngày 13/5/2016 (nhằm ngày 07/4/2016 âm lịch), L tự bỏ đi, còn lại 11 dây hụi chưa kết thúc.

Trong 11 dây hụi này, L chiếm đoạt của 112 hụi viên số tiền 4.270.159.000 đồng, L có trả 1.010.794.000 đồng, L chiếm đoạt của 102 người, với số tiền 3.259.365.000 đồng. Sau khi được đối chiếu, đối trừ, còn có 95 người có yêu cầu và 02 người đã bỏ địa phương đi không xác định được địa chỉ. Cụ thể:

Dây hụi thứ nhất: L mở vào ngày 22/6/2014 (nhằm ngày 25/5/2014 âm lịch), loại hụi 100.000 đồng, 10 ngày khui một lần, gồm có 39 hụi viên tham gia với 62 chân, khui đến kỳ 62, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó có 45 chân do hụi viên hốt nhưng L chỉ chung 42 chân, 03 chân chưa chung. Dây hụi này L không tham gia chân nào nhưng tự ý hốt 17 chân, gom tiền của 08 hụi viên, chiếm đoạt 51.344.000 đồng.

Ngoài ra, L bán hụi khống cho 03 hụi viên, 03 chân với số tiền 12.900.000 đồng. L có trả 4.860.000đ, còn chiếm đoạt 8.040.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này, L chiếm đoạt số tiền 64.244.000 đồng. (51.344.000 đồng + 12.900.000 đồng). L có trả 4.860.000 đồng, còn chiếm đoạt 59.384.000 đồng. (Bút lục số: 1.193, 1.194)

Dây hụi thứ hai: L mở vào ngày 31/12/2014 (nhằm ngày 10/11/2014 âm lịch), loại hụi 200.000 đồng, 15 ngày khui 1 lần, gồm 27 hụi viên, với 38 chân. Hụi khui đến kỳ 34, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó, có 13 chân do hụi viên hốt. Dây hụi này L không tham gia chân nào nhưng L tự ý hốt 21 chân, gom tiền của 20 hụi viên chiếm đoạt 75.840.000 đồng.

Ngoài ra, L bán hụi khống cho 06 hụi viên, 08 chân với số tiền 44.025.000 đồng, L có trả 17.935.000 đồng, còn chiếm đoạt 26.090.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 119.865.000 đồng. (75.840.000 đồng + 44.025.000 đồng). L đã trả 17.935.000 đồng, còn chiếm đoạt 101.930.000 đồng.

Dây hụi thứ ba: L mở vào ngày 09/7/2015 (nhằm ngày 25/6/2015 âm lịch), loại hụi 500.000 đồng, 15 ngày khui 1 lần, gồm có 40 hụi viên, với 53 chân, L tham gia 02 chân. Hụi khui đến kỳ 19, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó, có 09 chân do hụi viên hốt, L hốt 02 chân của L tham gia. L tự ý hốt 08 chân (tự hốt 04 chân và kê tên khống để hốt 04 chân), L đã gom tiền và chiếm đoạt của 30 hụi viên 170.661.000 đồng.

Ngoài ra, L bán hụi khống cho 03 người, 04 chân với số tiền 60.500.000 đồng. L có trả 6.750.000 đồng, còn chiếm đoạt 53.750.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này, L chiếm đoạt số tiền 231.161.000 đồng. (170.661.000 đồng + 60.500.000 đồng). L có trả 6.750.000 đồng, còn chiếm đoạt 224.411.000 đồng.

Dây hụi thứ tư: L mở vào ngày 01/12/2015 (nhằm ngày 20/10/2015 âm lịch), loại hụi 1.000.000 đồng/tháng, gồm có 29 hụi viên tham gia với 38 chân, L tham gia 03 chân. Hụi khui đến kỳ 06, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó, hụi viên hốt

03 chân, L hốt 03 chân do L tham gia.

Ngoài ra, L bán 01 chân hụi khống cho Nguyễn Thị Tú P, L chưa đóng hụi chết cho hụi viên, chiếm đoạt số tiền 26.000.000 đồng.

Như vậy, đối với dây hụi này L chiếm đoạt 01 chân hụi khống bán cho P số tiền 26.000.000 đồng.

Dây hụi thứ năm: L mở vào ngày 30/12/2015 (nhằm ngày 20/11/2015 âm lịch), loại hụi 20.000 đồng/ngày, gồm 21 người, 129 chân. Dây hụi này đã mãn. Trong đó, có 67 chân hụi viên hốt nhưng L chỉ chung 52 chân, 15 chân chưa chung đã thống nhất. Dây hụi này L không có tham gia nhưng tự ý hốt 62 chân, gom tiền của 14 hụi viên, chiếm đoạt số tiền 73.395.000 đồng.

Ngoài ra, L còn bán hụi khống cho 08 người, 91 chân, chiếm đoạt 147.409.000 đồng.

L đã trả 80.750.000 đồng, còn chiếm đoạt 66.659.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 220.804.000 đồng. (73.395.000 đồng + 147.409.000 đồng). L đã trả được 80.750.000 đồng, còn chiếm đoạt 140.054.000 đồng.

Dây hụi thứ sáu,thứ bảy : Hai dây hụi này L mở vào ngày 13/02/2016 (nhằm ngày 06/01/2016 âm lịch), loại hụi 20.000 đồng/ngày, gồm có 44 hụi viêntham gia, với 369 chân, khui đến kỳ 168, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó, chỉ có 18 chân là do hụi viên hốt, L không tham gia nhưng tự ý hốt 150 chân gom tiền của 43 hụi viên, chiếm đoạt 269.050.000 đồng.

Ngoài ra, L còn bán hụi khống cho 37 người, 760 chân, chiếm đoạt 975.085.000 đồng. L đã trả 449.720.000 đồng, còn chiếm đoạt 525.365.000 đồng.

Như vậy, hai dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 1.244.135.000 đồng. (269.050.000 đồng + 975.085.000 đồng). L có trả 449.720.000 đồng, còn chiếm đoạt 794.415.000 đồng.

 Dây hụi thứ tám, thứ chín: Hai dây hụi này L mở vào ngày 18/3/2016 (nhằmngày 10/02/2016 âm lịch), loại hụi 20.000 đồng/ngày, gồm có 54 hụi viên tham gia với 488 chân, khui đến kỳ 100, L bỏ đi thì ngưng hụi. Trong đó, chỉ có 01 chân là do hụi viên hốt. Dây hụi này L không tham gia nhưng tự ý hốt 99 chân gom tiền của 54 hụi viên, chiếm đoạt 226.710.000 đồng.

Ngoài ra, L còn bán hụi khống cho 58 người, 1.211 chân chiếm đoạt số tiền 1.445.157.000 đồng. L có trả 364.986.000 đồng, còn chiếm đoạt 1.080.171.000 đồng.

Như vậy, hai dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 1.671.867.000 đồng. (226.710.000 đồng + 1.445.157.000 đồng). L có trả 364.986.000 đồng, còn chiếm đoạt 1.306.881.000 đồng.

 Dây hụi thứ mười: L mở ngày 07/4/2016 (nhằm ngày 01/3/2016 âm lịch), loại hụi 50.000 đồng/ngày, gồm có 28 hụi viên tham gia với 69 chân, khui đến kỳ 30, L bỏ đi thì ngưng hụi. Dây hụi này L không tham gia chân nào và không có hụi viên nào hốt hụi, L tự ý hốt 30 chân gom tiền của 28 hụi viên, chiếm đoạt 49.033.000 đồng.

Ngoài ra, L bán hụi khống cho 35 người, 238 chân chiếm đoạt số tiền 539.760.000 đồng. L có trả 83.118.000 đồng, còn chiếm đoạt 456.642.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 588.793.000 đồng. (49.033.000 đồng + 539.760.000 đồng). L có trả 83.118.000 đồng, còn chiếm đoạt 505.675.000 đồng.

 Dây hụi thứ mười một: L mở vào ngày 06/5/2016 (nhằm ngày 30/3/2016 âm lịch), loại hụi 20.000 đồng/ngày, gồm có 16 hụi viên tham gia với 152 chân, khui đến kỳ 06, L bỏ đi thì ngưng hụi. Dây hụi này L không tham gia chân nào và không có hụi viên nào hốt hụi mà L tự ý hốt 06 chân gom tiền của 16 hụi viên, chiếm đoạt 10.580.000 đồng.

Ngoài ra, L bán hụi khống cho 05 người, 82 chân, chiếm đoạt 92.710.000 đồng.

L có trả 2.675.000 đồng, còn chiếm đoạt 90.035.000 đồng.

Như vậy, dây hụi này L chiếm đoạt số tiền 103.290.000 đồng. (10.580.000 đồng + 92.710.000 đồng). L có trả 2.675.000 đồng, còn chiếm đoạt 100.615.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định Hứa Kim L đã chiếm đoạt của các hụi viên tổng số tiền 4.270.159.000 đồng, L có trả 1.010.794.000 đồng, còn chiếm đoạt của 102 người, với số tiền 3.259.365.000 đồng. Quá trình điều tra L và các hụi viên đã được đối

chiếu, đối trừ với phần dân sự khác và đã thống nhất như sau:

1/ Mai Kiến O: 317.810.000 đồng - 95.825.000 đồng = 221.985.000 đồng + dân sự đã thống nhất 19.600.000đ = 241.585.000 đồng.

2/ Trần Ngọc T1: 148.120.000 đồng - 54.360.000 đồng = 93.760.000 đồng + dân sự đã thống nhất 6.000.000 đồng = 99.760.000 đồng.

3/ Phan Thị T2: 13.843.000 đồng, chưa trả lãi.

4/ Lạc Thị T3: 16.550.000 đồng, chưa trả lãi + dân sự đã thống nhất 33.250.000 đồng = 49.800.000 đồng.

5/ Nguyễn Ngọc G: 5.570.000 đồng, chưa trả lãi.

6/ Lê Văn P1: 31.750.000 đồng - 3.850.000 đồng = 27.900.000 đồng + dân sự đã thống nhất 2.600.000 đồng = 30.500.000 đồng.

7/ Võ Hồng T4: 10.965.000 đồng - 900.000 đồng = 10.065.000 đồng.

8/ Phan Thị C1: 7.832.000 đồng - 1.120.000 đồng = 6.712.000 đồng.

9/ Nguyễn Văn N2: 3.475.000 đồng.

10/ Trần Thị H1: 6.050.000 đồng.

11/ Lê Thị T5: 35.760.000 đồng - 5.300.000 đồng = 30.460.000 đồng + dân sự đã thống nhất 16.890.000 đồng = 47.350.000 đồng.

12/ Nguyễn Kim N3: 18.674.000 đồng - 1.550.000 đồng = 17.124.000 đồng.

13/ Mai Kiều H2: 41.790.000 đồng - 5.340.000 đồng = 36.450.000 đồng.

14/ Huỳnh Thị Chúc M: 13.340.000 đồng - 3.920.000 đồng = 9.420.000 đồng

15/ Nguyễn Bích T6: 19.870.000 đồng - 2.900.000 đồng = 16.970.000 đồng

16/ Lê Diễm T7: 91.330.000 đồng - 18.400.000 đồng = 72.930.000 đồng.

17/ Võ Thị H3: 46.630.000 đồng - 11.100.000 đồng = 35.530.000 đồng.

18/ Trần Văn B: 45.680.000 đồng - 5.700.000 đồng = 39.980.000 đồng.

19/ Nguyễn Kim A: 124.600.000 đồng - 36.316.000 đồng = 88.284.000 đồng

20/ Nguyễn Thị O1: 72.450.000 đồng - 17.200.000 đồng = 55.250.000 đồng -hụi chết 15.250.000 đồng = 40.000.000 đồng.

21/ Nguyễn Thị N4: 32.822.000 đồng - 4.850.000 đồng = 27.972.000 đồng - hụi chết 400.000 đồng = 27.572.000 đồng.

22/ Phùng Thị Thanh H4: 55.734.000 đồng - 8.700.000 đồng = 47.034.000 đồng.

23/ Nguyễn Văn H5: 83.160.000 đồng - 12.500.000 đồng = 70.660.000 đồng - hụi chết 3.000.000 đồng = 67.660.000 đồng.

24/ Nguyễn Thị A1: 97.820.000 đồng - 7.000.000 đồng = 90.820.000 đồng - hụi chết 800.000 đồng = 90.020.000 đồng.

25/ Trần Bích T8: 16.590.000 đồng - 1.000.000 đồng = 15.590.000 đồng - hụi chết 400.000 đồng = 15.190.000 đồng.

26/ Nguyễn Thị H6: 17.874.000 đồng - 2.530.000 đồng = 15.344.000 đồng.

27/ Trần Kim L1: 96.180.000 đồng - 19.125.000 đồng = 77.055.000 đồng + dân sự đã thống nhất 71.100.000 đồng = 148.155.000 đồng.

28/ Lạc Thị H7: 34.750.000 đồng - 10.000.000 đồng = 24.750.000 đồng + dân sự đã thống nhất 59.200.000 đồng = 83.950.000 đồng.

29/ Nguyễn Thị Tú P2: 208.680.000 đồng - 20.000.000 đồng = 188.680.000 đồng.

30/ Nguyễn Thị D: 428.575.000 đồng - 170.350.000 đồng = 258.225.000 đồng + dân sự đã thống nhất 21.000.000 đồng = 279.225.000 đồng.

31/ Tạ Thị M: 26.505.000 đồng - 3.600.000 đồng = 22.905.000 đồng.

32/ Nguyễn Thị L2: 73.335.000 đồng - 23.400.000 đồng = 49.935.000 đồng.

33/ Nguyễn Kiều O2: 17.250.000 đồng - 2.600.000 đồng = 14.650.000 đồng.

34/ Nguyễn Ngọc H8: 120.814.000 đồng - 25.600.000 đồng = 95.214.000 đồng.

35/ Nguyễn Thị N4: 28.220.000 đồng - 10.240.000 đồng = 17.980.000 đồng - hụi chết 800.000 đồng = 17.180.000 đồng.

36/ Trương Hồng C2: 63.460.000đ – 20.300.000đ = 43.160.000đ.

37/ Nguyễn Thị H9: 44.427.000đ – 12.770.000đ = 31.657.000đ.

38/ Lê Đình Q: 111.680.000đ – 49.240.000đ = 62.440.000đ.

39/ Huỳnh Thị K: 40.000.000đ – 12.250.000đ = 27.750.000đ.

40/ Lê Thúy K1: 165.970.000đ – 48.150.000đ = 117.820.000đ + dân sự đã thống nhất 45.221.000đ = 163.041.000đ.

41/ Huỳnh Tuấn K2: 30.820.000đ – 14.200.000đ = 16.620.000đ + dân sự đã thống nhất 8.330.000đ = 24.950.000đ.

42/ Võ Ngọc D1: 85.950.000đ – 31.700.000đ = 54.250.000đ.

43/ Lâm Thị T9: 30.761.000đ – 2.000.000đ = 28.761.000đ + dân sự đã thống nhất 3.350.000đ = 32.111.000đ.

44/ Mai Thị H10: 17.742.000đ – 7.850.000đ = 9.892.000đ.

45/ Bùi Thị A2: 32.855.000đ – 8.830.000đ = 24.025.000đ.

46/ Tô Mộng K3: 139.170.000đ – 39.420.000đ = 99.750.000đ.

47/ Quang Thị D2: 21.564.000đ - 4.400.000đ = 17.164.000đ - hụi chết 1.400.000đ = 15.764.000đ.

48/ Nguyễn Thị T10: 41.093.000đ - 3.920.000đ = 37.173.000đ.

49/ Nguyễn Bích P3: 39.350.000đ – 14.300.000đ = 25.050.000đ - hụi chết 1.680.000đ = 23.370.000đ.

50/ Nguyễn Thị Lệ H11: 173.875.000đ – 50.860.000đ = 123.015.000đ.

51/ Trần Hồng R: 28.415.000đ.

52/ Trần Kim T11: 22.160.000đ – 5.000.000đ = 17.160.000đ.

53/ Lê Thị S: 1.250.000đ + dân sự đã thống nhất 14.835.000đ = 16.085.000đ.

54/ Nguyễn Văn G1: 25.630.000đ – 1.500.000đ = 24.130.000đ – hụi chết 400.000đ = 23.730.000đ.

55/ Trần Thị Đ1: 62.518.000đ – 12.068.000đ = 50.450.000đ + dân sự đã thống nhất 7.576.000đ = 58.026.000đ.

56/ Nguyễn Thị Đ2: 20.000.000đ – 1.500.000đ = 18.500.000đ.

57/ Mai Thị T12: 38.216.000đ – 8.200.000đ = 30.016.000đ + dân sự đã thống nhất 10.800.000đ = 40.816.000đ

58/ Trương Thị L3: 12.441.000đ – 680.000đ = 11.761.000đ + dân sự đã thống nhất 3.350.000đ = 15.111.000đ

59/ Cao Tuyết L4: 42.526.000đ – 6.400.000đ = 36.126.000đ - hụi chết 2.800.000đ = 33.326.000đ.

60/ Huỳnh Thị H12: 60.840.000đ – 4.400.000đ = 56.440.000đ.

61/ Trần Văn Đ3: 4.420.000đ.

62/ Nguyễn Mỹ U: 1.680.000đ – 480.000đ = 1.200.000đ.

63/ Nguyễn Thúy H13: 39.550.000đ – 8.000.000đ = 31.550.000đ + dân sự đã thống nhất 9.000.000đ = 40.550.000đ

64/ Nguyễn Thị Đ4: 6.070.000đ.

65/ Nguyễn Thị L5: 44.425.000đ – 2.400.000đ = 42.025.000đ.

66/ Võ Văn H14: 7.590.000đ + dân sự đã thống nhất 2.020.000đ = 9.610.000đ

67/ Nguyễn Hoàng D3: 4.700.000đ.

68/ Lạc Văn N5: 4.000.000đ.

69/ Bùi Thị V: 8.750.000đ.

70/ Bùi Văn D4: 4.750.000đ.

71/ Nguyễn Thị Bích T13: 4.750.000đ + dân sự đã thống nhất 3.000.000đ = 7.750.000đ

72/ Trần Thị T14: 13.300.000đ + dân sự đã thống nhất 3.000.000đ = 16.300.000đ

73/ Bùi Văn H15: 8.750.000đ.

74/ Tạ Kim N6: 10.420.000đ – 1.600.000đ = 8.820.000đ.

75/ Lê Thị Thu T15: 1.100.000đ.

76/ Nguyễn Ngọc A3: 3.000.000đ + dân sự đã thống nhất 1.910.000đ = 4.910.000đ

77/Trần Ngọc Đ5: 10.690.000đ.

78/ Lưu Ngọc Y: 3.960.000đ.

79/ Trần Kim L6: 27.450.000đ – 1.300.000đ = 26.150.000đ – hụi chết 20.000.000đ = 6.150.000đ

80/ Lý Thị Bích T16: 39.963.000đ – 15.300.000đ = 24.663.000đ.

81/ Ngô Kim N7: 9.650.000đ.

82/ Trần Văn U1: 2.760.000đ

83/ Dương Hồng C4: 32.625.000đ – 7.360.000đ = 25.265.000đ.

84/ Nguyễn Thị Cẩm V1: 11.510.000đ + dân sự đã thống nhất 3.000.000đ = 14.510.000đ

85/ Nguyễn Thị Ư2: 800.000đ.

86/ Huỳnh Kim H16: 9.500.000đ.

87/ Lê Thị M1: 250.000đ

88/ Mai Hồng N8: 32.000.000đ (không yêu cầu).

89/ Hứa Tuyết M2: 32.300.000đ (không yêu cầu).

90/ Mã Hồng T17: 4.750.000đ.

91/ Nguyễn Thị O3: 2.680.000đ.

92/ Huỳnh Văn K4: 30.055.000đ – 1.500.000đ = 28.555.000đ + dân sự đã thống nhất 3.000.000đ = 31.555.000đ

93/ Hứa Minh C5: 4.750.000đ – hụi chết 400.000đ = 4.350.000đ.

94/ Nguyễn Thị K5: 4.600.000đ.

95/ Lê Thị L7: 5.000.000đ.

96/ Đặng Thị C6: 4.750.000đ (không yêu cầu).

97/ Lâm Thị Trang E: 12.000.000đ – hụi chết 600.000đ = 11.400.000đ.

98/ Nguyễn Thị Hải L8: 11.000.000đ.

99/ Châu Hồng D5: 4.968.000đ.

100/ Chiêm Văn N9: 4.850.000đ – hụi chết 400.000đ = 4.450.000đ.

101/ Trần Văn U3: 2.680.000đ.

102/ Nguyễn Thanh T18: 13.400.000đ.

Hiện nay có 95 người có đơn yêu cầu L hoàn trả số tiền chiếm đoạt là 4.559.175.000 đồng; Sau khi đối chiếu, đối trừ còn lại 3.491.175.000 đồng; có 05 người không yêu cầu, với số tiền 84.500.000 đồng và có 02 người không có mặt ở địa phương, với số tiền 17.850.000 đồng. (Bút lục 1.057 đến 1.068; 1.231 đến 1.251)

Ngoài ra còn có 03 người L không có liên quan đến trách nhiệm hình sự nhưng L còn nợ gồm:

1/ Dương Văn N10, yêu cầu L trả 1.760.000 đồng.

2/ Nguyễn Thúy A4 yêu cầu L trả 3.000.000 đồng.

3/ Nguyễn Thị D6 yêu cầu L trả 120.000 đồng.

Quá trình chơi hụi có 14 người nợ tiền hụi chết chưa đóng, L yêu cầu với số tiền 105.210.000 đồng, chưa được đối trừ gồm:

1/ Quách Văn B1, L yêu cầu: 14.600.000 đồng.

2/ Nguyền Văn C7, L yêu cầu: 1.200.000đ

3/ Trần Văn U3, L yêu cầu: 17.360.000đ.

4/ Lê Thị M1, L yêu cầu: 5.350.000đ.

5/ Đào Thị Đ1, L yêu cầu: 38.800.000đ.

6/ Nguyễn Thị M3, L yêu cầu: 25.500.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.042).

7/ Nguyễn Văn H17, L yêu cầu: 400.000đ.

8/ Bùi Văn G2, L yêu cầu: 400.000đ (ông Gây đã chết, có biên bản xác minh – Bút lục số 1.047).

9/ Nguyễn Văn S2, L yêu cầu: 800.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại

địa phương – Bút lục số 1.048).

10/ Nguyễn Văn T19, L yêu cầu 2.850.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.049).

11/ Bùi Văn T20, L yêu cầu: 1.200.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.050).

12/ Thạch Văn Q1, L yêu cầu: 400.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.052).

13/ Lâm Thị Trang N11, L yêu cầu: 400.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.053).

14/ Biện Văn T21, L yêu cầu: 3.650.000đ (Biên bản xác minh không có mặt tại địa phương – Bút lục số 1.055).

Qua kết quả điều tra, L khai số tiền 4.270.159.000 đồng chiếm đoạt của các bị hại, L sử dụng tiêu xài cá nhân dẫn đến mất khả năng thanh toán. L khai nhận số tiền chiếm đoạt nêu trên L sử dụng một phần để trả lại cho các hụi viên trong số tiền L bán hụi khống 1.010.794.000 đồng, còn lại 3.259.365.000 đồng, L có dùng để trả nợ và cho mượn. Cụ thể như sau:

- Trả nợ cho Nguyễn Thị D, số tiền 30.000.000 đồng.

- Trả nợ cho Mai Kiến O, số tiền 60.000.000đ

- Trả nợ cho Lý Thanh M4, số tiền 35.000.000đ

- Trả nợ cho Nguyễn Thị Tú P, số tiền 15.000.000đ

- Trả nợ cho Nguyễn Thị M3, số tiền 10.000.000đ

- Trả nợ cho Nguyễn Văn S2, số tiền 18.000.000đ

- Trả nợ cho Võ Thị H18, số tiền 9.000.000đ

- Trả nợ cho Bùi Văn T20, số tiền 18.000.000đ và cho mượn số tiền 19.000.000đ.

Qua làm việc, 04 người (D, O, M4 và P) xác định L không có trả tiền; 04 người còn lại (M3, S2, H18 và T20) không có mặt tại địa phương và L cũng không có tài liệu gì để chứng minh cho lời khai của L.

Trong quá trình điều tra, gia đình L đã nộp số tiền 120.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho L. Cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Cà Mau đã nộp số tiền này vào tài khoản tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Cà Mau ngày 30/11/2016 (Bút lục số 57, 58).

Quá trình khám xét chỗ ở của L, Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 (hai) cuốn tập học sinh và 41 (bốn mươi mốt) giấy hụi do L ghi theo dõi việc chơi hụi phục vụ cho công tác điều tra (Bút lục số: 74 đến 167).

Với hành vi nêu trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 24/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

Tuyên bố bị cáo Hứa Kim L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hứa Kim L 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 29 tháng 9 năm 2016.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau còn quyết định về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/6/2017, bị cáo Hứa Kim L có đơn xin kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hứa Kim L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Hội đồng xét xử quan tâm đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, cụ thể bị cáo thành khẩn khai báo, đã khắc phục hậu quả. Bị cáo có gia đình có truyền thống Cách mạng, gia đình khó khăn. Khi bị cáo bị tạm giam thì chồng bỏ, có hai con nhỏ giao cho mẹ nuôi. Viện kiểm sát tỉnh Cà Mau chỉ đề nghị xét xử bị cáo với mức án từ 08 - 10 năm tù. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự xem xét xử bị cáo mức án dưới khung hình phạt. Mức án năm tù mà Tòa cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là quá cao, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giảm hình phạt cho bị cáo.

Đi diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã tuyên, cả phần dân sự trong bản án. Hậu quả bị cáo gây ra đặc biệt nghiêm trọng. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo kháng cáo không đưa ra các tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hứa Kim L thừa nhận từ năm 2013, bị cáo Hứa Kim L làm chủ hụi mở các dây hụi tại nhà của bị cáo thuộc ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau, gồm có hụi: Hụi 20.000 đồng/ngày; hụi 50.000 đồng/ngày; hụi 100.000 đồng/10 ngày; hụi 200.000 đồng/15 ngày; hụi 500.000 đồng/15 ngày; hụi 1.000.000 đồng/01 tháng cho những người quen biết chơi, L hưởng tiền hoa hồng trực tiếp trên các dây hụi. Trong quá trình làm chủ hụi, L lợi dụng việc không gửi danh sách hụi cho các hụi viên, không tổ chức khui thăm, L tự ý hốt hụi, gom tiền hụi và bán hụi khống cho nhiều người khác lấy tiền tiêu xài cá nhân. Từ đó, L đã thâm nợ rất nhiều nên sau khi mãn các dây hụi trước, L tiếp tục mở nhiều dây hụi nữa để tiếp tục hốt hụi, của các hụi viên và bán hụi khống lấy tiền lấp cho số tiền mà L đã chiếm đoạt trước đó của các hụi viên. Từ ngày 22/6/2014 (nhằm ngày 25/5/2014 âm lịch) đến ngày 13/5/2016 (nhằm ngày 07/4/2016 âm lịch), L đã bỏ đi, còn lại 11 dây hụi chưa kết thúc. Trong 11 dây hụi bị cáo L mở, bị cáo chiếm đoạt của 112 hụi viên số tiền 4.270.159.000đồng, L có trả được 1.010.794.000đồng, L còn chiếm đoạt của 102 người, với số tiền 3.259.365.000 đồng.

Hiện nay có 05 người bị hại không yêu cầu bị cáo L trả lại số tiền chiếm đoạt 84.800.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét; 02 người vắng mặt tại địa phương, 95 người bị hại có mặt tại địa phương yêu cầu bị cáo L trả số tiền chiếm đoạt 3.259.365.000 đồng.

Tất cả 11 dây hụi nêu trên, quá trình điều tra đã được bị cáo L đối chiếu với những người tham gia chơi hụi, mua hụi, đã thống nhất và được thống kê theo danh sách tổng hợp những người tham gia chơi hụi do bị cáo L làm chủ (Danh sách ngày 29/12/2016 kèm theo biên bản hỏi cung ngày 29/12/2016) và tại phiên tòa sơ thẩm cũng được Tòa án cấp sơ thẩm đối chiếu làm rõ.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai những người làm chứng, người bị hại và các tài liệu khác đã có trong hồ sơ.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đồng ý với phần dân sự mà bản án sơ thẩm đã quyết định, bị cáo chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xét đề nghị của luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo Hứa Kim L gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo L không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, mà còn xâm hại đến đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong giao dịch dân sự bằng hình thức chơi hụi, góp phần tương trợ lẫn nhau phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Hành vi của bị cáo không những gây tác động xấu trong quần chúng nhân dân, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình cụ thể sau khi vụ án xảy ra, bị cáo và gia đình của bị cáo đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả hoàn trả cho các bị hại số tiền 1.010.794.000 đồng; Giai đoạn điều tra gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp khắc phục hậu quả với số tiền 120.000.000 đồng; bị cáo thật thà khai báo, biết ăn năn hối cải; Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Gia đình bị cáo có truyền thống cách mạng, án sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp quy định của pháp luật. Bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra các tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm theo như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

 [4] Do không được chấp nhận kháng cáo, bị cáo L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [5] Các nội dung khác trong quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

 [6] Đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Đề nghị của Luật sư bào chữa tham gia phiên tòa không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hứa Kim L.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 24/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hứa Kim L 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 29 tháng 9 năm 2016.

2. Các nội dung khác trong quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm 13/2017/HSST ngày 24/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo Hứa Kim L chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 540/2017/HS-PT ngày 10/10/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:540/2017/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về