Bản án 537/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 537/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại hội trường UBND xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 524/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 533/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Văn H (tên gọi khác: không), sinh ngày 22/6/1992, tại Thái Nguyên. Nơi thường trú: xóm G, xã TC, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Giới tính: Nam; Con ông: Lương Ngọc Cg, sinh năm 1951 và bà: Phạm Thị Hg, sinh năm 1952, gia đình bị cáo có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ tám; Có vợ là Bùi Thị Á, sinh năm 1994 có 01 con chung sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2020 đến nay, hiện bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng: Anh Phạm Tuấn A, sinh năm 1990 (vắng mặt) Nơi thường trú: xóm HT, xã TC, TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

*Ngưi chứng kiến: Ông Phạm Văn C, sinh năm 1965 ( vắng mặt) Nơi thường trú: Tổ X, phường TĐ, TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/7/2020 Lương Văn H, sinh năm 1992, nơi thường trú: xóm G, xã TC, TPTN, tỉnh Thái Nguyên, đang ở trong nhà nghỉ "24h" thuộc khu vực gần trường V nên gọi điện cho Phạm Tuấn A, sinh năm 1990, trú tại xóm HT, xã TC, TPTN ra đón H về. Khi H và Tuấn A đi đến khu vực cây đa Đán thuộc phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên H nhận được điện thoại của một người nam thanh niên tên T (là bạn mới quen, H không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ ở đâu) bảo H đợi T. H và Phạm Tuấn A cùng đứng chờ ở cây đa Đán khoảng 15 phút sau thì T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu cam (H không nhớ biển kiểm soát) đi đến "Tý nữa cầm hộ anh ít đồ" H hiểu đó là cầm ma túy cho T, H đồng ý. Sau đó H bảo Phạm Tuấn A đứng đợi còn H lên xe đi cùng T đến khu vực dân cư phía sau Bệnh viện A thuộc phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, tại đây H và T gặp một nam thanh niên khoảng ngoài 30 tuổi (H không quen biết), T bảo H xuống xe gặp người thanh niên để lấy ma túy. Khi gặp người nam thanh niên thì người này đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nylon trong suốt chứa ma túy đá và 02 viên ma túy hồng phiến. Lúc này T bảo H đứng đợi ở đó để T đi đổi tiền để trả tiền mua ma túy, còn người nam thanh niên đi đâu thì H không biết. H đứng đợi một lúc thì thấy lực lượng Công an đến, do lo sợ H đã để bao thuốc lá bên trong có chứa ma túy lên bờ tường cách chỗ H đứng khoảng 02m. Tổ công tác công an phường Thịnh Đán đã tiến hành kiểm tra bên trong bao thuốc lá có 01 túi nylon bên trong có 02 viên nén màu hồng và tinh thể màu trắng, tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng có ốp lưng màu đen và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất tinh thể màu trắng thu giữ có khối lượng là 0,208 gam, niêm phong ký hiệu B gửi giám định; cân xác định khối lượng số viên nén màu hồng có khối lượng là 0,204 gam, niêm phong ký hiệu Q gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 989/KL-KTHS ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu B gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,208 gam. Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu Q gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,204 gam.

Bản cáo trạng số 537/CT-VKSTPTN ngày 30 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên , tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Lương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 Tại phiên tòa bị cáo xác định do mới quen một người tên Tuấn nên khi Tuấn gọi điện nhờ cầm “đồ” hộ bị cáo hiểu là ma túy đá nên đã đồng ý, T đèo bị cáo đến khu vực Bệnh viện A để nhận số ma túy từ một người đàn ông không quen biết và bị cáo đứng chờ T đi đổi tiền trả tiền mua ma túy thì lực lượng công an đã kiểm tra bắt và thu giữ ma túy niêm phong theo quy định như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo là đúng, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lương Văn H từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu B, Q (Bên trong chứa ma túy, mẫu hoàn lại sau giám định); Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng có ốp lưng màu đen đã qua sử dụng; Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã qua sử dụng của bị cáo để đảm bảo thi hành án; Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo nhận thức hành vi vi phạm của mình là sai trái, vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn H tại phiên tòa là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu hồng được thu của Lương Văn H là Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do được một người đàn ông tên T mới quen gọi điện nhờ cầm ma túy hộ với mục đích được cùng sử dụng, hồi 12 giờ 00 ngày 27/7/2020 khi người tên Tuấn đèo H đến khu vực bệnh viện A rồi T đi đổi tiền. H nhận 01 vỏ bao thuốc lá trong có ma túy từ một người đàn ông không quen biết sau đó đứng đợi T quay lại thì bị lực lượng công an phường Thịnh Đán kiểm tra thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nylon trong có 02 viên nén màu hồng và tinh thể màu trắng. Cùng ngày, cơ quan điều tra cân kiểm tra số tinh thể màu trắng có khối lượng 0,208gam và 02 viên nén màu hồng có khối lượng 0,204 gam, giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine.

[3] Với hành vi cất giữ 0,412 gam Methamphetamine như trên hành vi của bị cáo Lương Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo vẫn nhận cất giữ ma túy với mục đích được sử dụng, phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo có mẹ đẻ là bà Phạm Thị Hg được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, có bố đẻ là Lương Ngọc Cg được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ giải phóng, là thương binh hạng 3 và hưởng trợ cấp người bị nhiễm chất độc hóa học là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo không có tài sản và thu nhập, bị cáo cất giữ ma túy hộ Tuấn với mục đích được sử dụng chung do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[7] Xử lý vật chứng: Đối với 02 bì niêm phong ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng có ốp lưng màu đen đã qua sử dụng, được bị cáo sử dụng khi Tuấn liên hệ nhờ cầm ma túy giúp nên tịch thu sung ngân sách nhà nước, đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã qua sử dụng bị cáo xác định dùng để sinh hoạt hàng ngày nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy, Lương Văn H khai được một người đàn ông tên T (H mới quen nhưng không biết rõ lai lịch địa chỉ) nhờ lấy hộ từ một nam thanh niên không quen biết tại khu vực phía sau Bệnh viện A thuộc khu vực tổ X, phường TĐ, thành phố Thái Nguyên, quá trình điều tra cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của 02 người đàn ông này nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp, được chấp nhận.

Vì các lẽ trên Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Văn H phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Lương Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2020.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự Quyết định tạm giam Lương Văn H 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

[4.1] Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu B (bên trong chứa ma túy) là đối tượng hoàn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên cùng chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Ma Nhật Anh.

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu Q (bên trong chứa ma túy) là đối tượng hoàn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên cùng chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Ma Nhật Anh.

[4.2] Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng, có ốp lưng màu đen, Model:1110, có dãy số 350991/30/043994/9, bàn phím mất chữ, nắp pin vỡ (đã cũ).

[4.3] Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có IMEI: 013550009004358 (đã cũ, xước).

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 89 lập ngày 04/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lương Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Lương Văn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 537/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:537/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về