Bản án 537/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 537/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 03/05/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2016/TLST-HN ngày 14 tháng 4 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1621/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc H , sinh năm 1987

Địa chỉ: 42B ấp T, xã A, huyện G, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Ông Do Van V, sinh năm 1963

Địa chỉ: Unit 4/59-63 B Street C Vale NSW 2166, Australia.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 01/4/2016 và bản tự khai ngày 06/5/2016, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:

Bà và ông Do Van V quen biết với nhau từ năm 2012, sau đó hai bên tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2443 quyển số 13 ngày 09/10/2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Hai bên sống cùng nhau tại nhà của gia đình bà ở huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 06/11/2015, ông Do Van V quay trở về Úc nhưng không báo cho bà biết. Mặc dù thời gian sống chung rất ngắn nhưng vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông Do Van V cư xử thiếu tế nhị và thiếu tôn trọng vợ. Từ khi ông Do Van V về Úc cho đến nay, ông không trở lại Việt Nam, bà cũng không còn có thể liên lạc được với chồng. Bà xác định vợ chồng không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: không có

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn ông Do Van V cư trú ở Australia, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự (lần 1) số 681/UTTPDS-TGĐ ngày 28/6/2016 và Thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm (lần

2) số 212/UTTPDS-TA30 ngày 14/7/2017. Theo nôi dung tại các văn bản nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 8g00 ngày 15/02/2017, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 8g00 ngày 15/01/2018. Văn bản lần 1 được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) vào ngày 29/8/2016. Văn bản lần 2 được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Tổng Chưởng lý Liên bang Ô-xtơ-rây-li-a ngày 07/9/2017. Đến ngày mở phiên tòa, Tòa án không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Do Van V và ông cũng không có mặt tại phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Ngọc Hđược ly hôn ông Do Van V. Con chung: không có. Tài sản chung không có gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Do Van V cư trú tại nước Australia; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn ông Do Van V vắng mặt đến lần thứ 2. Ngày 15/01/2018, Tòa án hoãn phiên tòa và có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp đối với ông Do Van V. Bộ Tư pháp có văn bản số 452/CH-BTP ngày 07/3/2018 gửi Bộ Tổng Chưởng lý Liên bang Ô-xtơ-rây- li-a về tiến độ thực hiện ủy thác tư pháp. Đến nay, Tòa án không nhận đượcthông báo của cơ quan có thẩm quyền về kết quả thực hiện việc tống đạt cho ông Do Van V.

Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 và điểm c khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Nguyễn Thị Ngọc H và ông Do Van V tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2015, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 2443 quyển số 13 ngày 09/10/2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà H thì thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau tại nhà cha mẹ bà ở huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian sống chung giữa đôi bên rất ngắn nhưng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông Do Van V cư xử thiếu tế nhị, không tôn trọng vợ, thường xuyên nhậu say xỉn, bà có khuyên can nhưng không thay đổi. Đến ngày 06/11/2015, ông Do Van V trở về Úc mà không báo cho bà biết. Từ đó cho đến nay, ông Do Van V không quay lại Việt Nam và bà cũng mất liên lạc với chồng. Vì vậy, bà xác định tình cảm đối với chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Xét, tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Như vậy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau và kể từ khi bà H nộp đơn ly hôn ông Do Van V cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng mà vẫn mạnh ai nấy sống trong thời gian dài nên hôn nhân giữa đôi bên lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà H.

Về con chung: Bà H khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Pháp lệnh về lệ phí và án phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc H được ly hôn ông Do Van V.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 2443, Quyển số 13 ngày 09/10/2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc H khai không có. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng bà Nguyễn Thị Ngọc H nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng bà H đã nộp tại Biên lai thu số AA/2014/0006018 ngày 08/4/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà H đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H và bị đơn ông Do Van V; bà Nguyễn Thị Ngọc H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Do Van V được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 (mười hai) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 537/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:537/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về