TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 53/2021/HS-PT NGÀY 12/07/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 12 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 31/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với Trần Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HS-ST ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện V.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Văn H, (tên gọi khác: không), sinh năm 1999, tại: Xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đ1, Xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C, sinh năm 1969 và con bà Lưu Thị P, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2020 đến ngày 04/02/2021 được tại ngoại (có mặt).
Ngoài ra trong vụ án còn có người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị không được Tòa án triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 45 phút ngày 21/12/2020 tại đoạn đường liên thôn C1và thôn N1, xã N, huyện V, Công an huyện V bắt quả tang Trần Văn H có hành vi tàng trữ pháo với mục đích để bán kiếm lời. Vật chứng thu giữ bao gồm:
- Thu trong cốp sau xe ô tô nhãn hiệu Vios màu nâu vàng đã cũ gắn BKS:
88A-132.92 có 03 thùng cát tông màu nâu. Cụ thể:
+ 02 thùng, bên trong mỗi thùng đều có 12 khối hộp đặc điểm tương đồng nhau, kích thước 17 x 16,5 x 14,5cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bao gói bằng giấy màu vàng, xanh, đỏ, bốn mặt xung quanh của các khối hộp này đều in chữ nước ngoài (kiểu chữ Trung Quốc), bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ tròn được gắn kết với nhau bằng keo dán và băng dính quấn xung quanh có dây dẫn thò ra ngoài. Khối lượng cân sơ bộ của 24 khối hộp này là 48 kg. Toàn bộ 24 khối hộp này được niêm phong vào 02 thùng cát tông theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M1.
+ 01 thùng bên trong có: 03 khối hộp đặc điểm tương đồng nhau, kích thước 16,5 x 16,5 x 15cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bao gói bằng giấy màu vàng, xanh, đỏ, bốn mặt xung quanh của các khối hộp này đều in chữ nước ngoài (kiểu chữ Trung Quốc), bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ tròn được gắn kết với nhau bằng keo dán và băng dính quấn xung quanh có dây dẫn thò ra ngoài. Khối lượng cân sơ bộ của 03 khối hộp này là 06 kg. Toàn bộ 03 khối hộp này được niêm phong vào 01 thùng cát tông theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M2; 09 khối hộp đặc điểm tương đồng nhau, kích thước 17,5 x 17,5 x 12cm, bên ngoài mỗi khối hộp được bao gói bằng giấy màu vàng, xanh, đỏ, bốn mặt xung quanh của các khối hộp này đều in chữ nước ngoài (kiểu chữ Trung Quốc), bên trong mỗi khối hộp có 49 vật hình trụ tròn được gắn kết với nhau bằng keo dán và băng dính quấn xung quanh có dây dẫn thò ra ngoài. Khối lượng cân sơ bộ của 09 khối hộp này là 17,1 kg. Toàn bộ 09 khối hộp này được niêm phong vào 01 thùng cát tông theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M3.
-Thu trong túi quần bên phải phía trước Trần Văn H đang mặc 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng đã cũ bên trong lắp sim thuê bao 0888.756.786.
Cùng ngày 21/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Trần Văn H tại thôn Đ1, Xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình khám xét đã phát hiện thu giữ trong 01 chum sành được kê tại góc nhà bếp phía trước bên phải theo hướng nhà có:
- 01 khối hộp kích thước 23 x 22,5 x 16cm, bên ngoài khối hộp được bao gói bằng giấy màu vàng, xanh, đỏ, bốn mặt xung quanh của khối hộp này đều in chữ nước ngoài (kiểu chữ Trung Quốc), bên trong khối hộp có 100 vật hình trụ tròn được gắn kết với nhau bằng keo dán và băng dính quấn xung quanh có dây dẫn thò ra ngoài. Khối lượng cân sơ bộ của 01 khối hộp này là 3,3 kg. Khối hộp này được niêm phong vào 01 hộp giấy theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M4.
- 01 khối hộp kích thước 19 x 17,5 x 10cm, bên ngoài khối hộp được bao gói bằng giấy màu vàng, xanh, đỏ, bốn mặt xung quanh của khối hộp này đều in chữ nước ngoài (kiểu chữ Trung Quốc), bên trong khối hộp có 49 vật hình trụ tròn được gắn kết với nhau bằng keo dán và băng dính quấn xung quanh có dây dẫn thò ra ngoài. Khối lượng cân sơ bộ của 01 khối hộp này là 2,3 kg. Khối hộp này được niêm phong vào 01 hộp giấy theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M5.
- 10 vật hình bóng điện tròn, mỗi vật đều có hình dạng và kích thước giống nhau, dài 6cm, phần trụ tròn có đường kính 2,5cm, phần đầu tròn có đường kính đo tại điểm rộng nhất là 4cm, bên ngoài được bọc lớp giấy màu xám, tại phần trụ tròn có 01 dây dẫn màu xanh. Khối lượng cân sơ bộ của 10 vật này là 0,3kg. Tang vật được niêm phong vào 01 hộp giấy theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu M6.
Tại bản Kết luận giám định số 3293/KLGĐ, ngày 26/12/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Các mẫu ký hiệu M1, M2, M3, M4, M5 và M6 gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), có tổng trọng lượng là 74,52kg.
Quá trình giải quyết vụ án, Trần Văn H khai nhận: Khoảng 18 giờ phút ngày 21/12/2020, H đang ở nhà tại thôn Đ1, Xã Đ, huyện Y thì nhận được điện thoại từ số thuê bao 0974.382.197 của một người đàn ông tên là Công, sinh năm 1986 ở xã N, huyện V gọi đến số thuê bao của H là 0888.756.786. Qua điện thoại Công hỏi mua pháo của H với số lượng 20 cối pháo loại 49 quả/01 cối với tổng số tiền là 15.000.000đ. Do có sẵn pháo để bán nên H đã nhận lời đồng ý, sau đó Công hẹn H đến 19 giờ cùng ngày gặp nhau ở nhà văn hóa thôn Đình, xã N. Sau khi nói chuyện với Công xong thì H đến quán internet Giỏi Hằng ở cùng thôn để chơi điện tử, tại đây H gặp Trần Anh Tuấn, H chơi điện tử cùng Tuấn đến khoảng gần 19 giờ cùng ngày thì Công gọi điện thoại cho H để giục H đem pháo đến bán cho Công. Sau đó, H rủ Tuấn đi cùng H đến xã N có việc, Tuấn đồng ý; H không nói cho Tuấn biết việc H đi đến xã N là để bán pháo nổ. H gọi điện thoại gọi cho Trần Văn Khải, sinh năm 1998, trú tại: Đồng Lạc 1, Xã Đ, huyện Y là lái xe taxi đến đón H và Tuấn ở quán internet Giỏi Hằng. Khi Khải đến đón H và Tuấn thì H bảo Khải lái xe về nhà H. Về đến nhà thì H xuống xe đi vào trong gian bếp của nhà H và bê ra 03 thùng cát tông màu nâu để vào sau cốp xe taxi của Khải. Sau đó, H lên xe taxi và bảo Khải đưa đến nhà văn hóa thôn Đình, xã N có việc, H không nói cho Khải biết việc H đi đến xã N là để bán pháo nổ. Khi đi đến điểm hẹn thì H thấy Công đang đi trên một chiếc xe máy và Công bảo là đi theo Công. H bảo Khải điều khiển xe taxi đi theo Công đến đoạn đường liên thôn đối diện cổng nghĩa trang thôn Chợ, xã N thì dừng xe, tại đây H thấy Công đứng cạnh một người phụ nữ lạ mặt rồi H xuống xe trước và Tuấn xuống xe taxi sau. H đi đến chỗ Công và người phụ nữ lạ mặt đang đứng thì lúc này Công nói với H: "Chị này muốn mua pháo". H hiểu ý Công là giới thiệu người phụ nữ đó mua pháo của H, sau đó người phụ nữ lạ mặt nói với H: "Pháo đâu cho chị xem". H đồng ý và đi ra cốp sau xe taxi để lấy pháo cho xem, đúng lúc này Cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu giữ cùng tang vật. Còn Công và người phụ nữ lạ mặt hỏi mua pháo của H đã lợi dụng sơ hở bỏ chạy thoát.
Về nguồn gốc số pháo H đem đi để bán vào tối ngày 21/12/2020 và số pháo cất giấu tại chỗ ở thu được trong quá trình khám xét, quá trình điều tra H khai nhận: Từ khoảng giữa năm 2020, H đến huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang để thu mua sắt thì có quen biết một người đàn ông (H không biết tên tuổi, địa chị cụ thể là gì, ở đâu). H biết người đàn ông này có bán pháo nên vào khoảng đầu tháng 12/2020 H nảy sinh nhu cầu mua pháo nổ để đem về bán kiếm lời. H hỏi mua được 37 hộp pháo loại 49 quả, 01 hộp pháo 100 quả và 10 quả pháo trứng của người đàn ông này với số tiền 10.000.000đ, người đàn ông trên nhận tiền trước của H và hẹn khi nào có pháo sẽ gửi về cho H bằng xe khách. Đến khoảng giữa tháng 12/2020, người đàn ông bán pháo cho H gọi điện thông báo đã chuyển pháo cho H bằng xe khách và hẹn H đến khoảng 15 giờ cùng ngày hôm đó đến đoạn được Quốc lộ 2A gần cây xăng Đồng Văn và giáp đường tránh Vĩnh Yên để nhận pháo. Khoảng gần 15 giờ ngày hôm đó H ra điểm hẹn và nhận được số pháo đã đặt mua từ một chiếc xe khách, sau đó H thuê xe taxi chở số pháo mua được về cất giấu ở trong gian bếp nhà H. Đến buổi tối này 21/12/2020, khi H đem pháo đi bán cho Công thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HS-ST ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 21 tháng 12 năm 2020 đến ngày 04 tháng 02 năm 2021.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn áp dụng quyết định xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24 tháng 02 năm 2021 bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Văn Trọng vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; chấp nhận kháng cáo của bị cáo; sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện V theo hướng chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xử phạt bị cáo 03 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn H trong thời hạn luật định, hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét.
[2] Về nội dung: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản án sơ thẩm đã tóm tắt nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 19 giờ 45 phút ngày 21/12/2020, tại thôn Chợ, xã N, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện V bắt quả tang Trần Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 68,64kg pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ với mục đích để bán kiếm lời. Tang vật thu giữ gồm: 32 khối hộp đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ có tổng trọng lượng 68,64 kg và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng đã cũ bên trong lắp sim thuê bao 0888.756.786. Quá trình khám xét tại nhà ở của Trần Văn H, thu giữ: 02 khối hộp và 10 vật hình bóng điện đều có đầy đủ đặc tính của pháo nổ có tổng trọng lượng 5,88 kg, H khai nhận tàng trữ toàn bộ số pháo này nhằm mục đích để bán kiếm lời. Như vậy, Trần Văn H tàng trữ tổng số 74,52 kg pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nhằm mục đích bán kiếm lời.
Căn cứ vào lời khai của bị cáo Trần Văn H tại phiên tòa và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét bị cáo Trần Văn H về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật không oan sai.
Về tính chất của vụ án là tội phạm nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy cần xử lý nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng, phòng ngừa chung, phục vụ tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh trật tự tại địa phương và làm gương cho người khác.
[3] Xét về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Văn H; Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Trần Văn H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ quy định của nhà nước cấm buôn bán pháo nổ. Tuy nhiên vì mục đích vụ lợi, bị cáo bất chấp quy định của pháp luật vẫn cố ý tàng trữ pháo nổ bán kiếm lời đã thể hiện sự coi thường pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện tội phạm, nhân thân của bị cáo, khối lượng pháo do bị cáo buôn bán để áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, đây là hình phạt dưới khung do pháp luật quy định là phù hợp quy định của pháp luật, tương xứng với hành vi do bị cáo thực hiện. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ có xác nhận của địa phương thể hiện sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có thành tích trong việc tham gia phòng chống Covid 19 tại địa phương, đây là tình tiết giảm nhẹ mới để Hội đồng xét xử xem xét, khi quyết định hình phạt. Xét thấy, trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu bị xử lý trước pháp luật; quá trình giải quyết vụ án luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh gia đình éo le do bố bị bệnh hiểm nghèo, mẹ sức khỏe yếu và trong thời giai đoạn xét xử phúc thẩm tích cực tham gia công tác xã hội thể hiện ý thức, thái độ lập công. Bị cáo Trần Văn H được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của pháp luật. Do vậy mức hình phạt 04 năm tù Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét; giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho bị cáo là phù hợp, đây cũng là cơ hội để bị cáo yên tâm cải tạo sớm hoàn lương.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Trần Văn H không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn H; sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HS-ST ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện V.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 03 (Ba) năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, thời hạn chấp hành hình phạt tính tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 21/12/2020 đến ngày 04/02/2021.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo Trần Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 53/2021/HS-PT ngày 12/07/2021 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 53/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về