TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 21/2018/HSPT NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 17 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 60/2018/HSPT ngày 19 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Văn S do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 92/2018/HSST ngày 09 tháng 02 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn S, sinh năm 1982; giới tính: Nam; Nơi cư trú: Khối 7, thị trấn C, huyện C, tỉnh Nghệ An; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lái xe; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1954 và bà Trần Thị C, sinh năm 1952; có vợ là Trần Thị H, sinh năm 1986 và 02 con, lớn sinh năm 2011 và nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 9/12/2017 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ, ngày 09/12/2017 tại Km 138 đường cao tốc 3, thuộc khu vực phường C, Thành phố B, lực lượng công an bắt quả tang Nguyễn Văn S có hành vi vận chuyển pháo trên xe ô tô taxi hãng Suntaxi BKS 99A-106.30 do lái xe là anh Nguyễn Văn H1 điều khiển. Vật chứng thu giữ được: Thu ở ghế sau xe taxi 02 thùng bìa cát tông, trong đó 01 thùng chứa 07 hộp pháo nổ hình trụ, 08 hộp pháo hoa hình lập phương và 01 thùng chứa 18 hộp pháo hình lập phương và 01 xe ô tô BKS 99A-106.30.
Kết luận giám định số 26 ngày 09/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Trong hộp giấy bìa cát tông ký hiệu H1:
- Mẫu vật gồm 06 hộp hình tròn có đường kính 38 cm, dày 06 cm và 01 hộp đã được bọc ra gửi đi giám định có trọng lượng 14,55kg là pháo; loại pháo nổ; có chứa thuốc pháo; khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ.
- Mẫu vật gồm 08 hộp dạng hình lập phương có kích thước (14,5 x 14,5 x 14,5) cm, bên trong mỗi hộp đều có 36 ống hình trụ gửi giám định có tổng trọng lượng 10,82 kg là pháo; có chứa thuốc pháo; loại pháo hoa; khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ.
Trong hộp giấy bìa cát tông ký hiệu H2: Mẫu vật gồm 18 hộp dạng hình lập phương có kích thước (14,5 x 14,5 x 14,5) cm, bên trong mỗi hộp đều có 36 ống hình trụ tròn gửi giám định có tổng trọng lượng 24,25 kg là pháo; có chứa thuốc pháo; loại pháo hoa; khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ.
Quá trình điều tra xác định: S là lái xe khách Hải Bình tuyến Nghệ An – Bắc Ninh, vào khoảng 5h30’ ngày 09/12/2017 S lái xe đến khu công nghiệp Y, tỉnh Bắc Ninh thì dừng xe và ngồi nghỉ uống nước. Tại quán nước S gặp anh Nguyễn Hữu L và L có cho S số điện thoại của một đối tượng tên H2 ở tỉnh Bắc Giang để S liên hệ mua pháo. S gọi cho H2 và hỏi mua 26 cục pháo hoa và 07 băng pháo giấy. H2 đồng ý bán số pháo trên với giá 12.000.000đ và hẹn S đến KCN Đ, huyện V, tỉnh Bắc Giang để giao hàng. S nhờ một người quen tên H3 quê Nghệ An chở S bằng xe máy đến điểm hẹn gặp H2. Khi đến điểm hẹn H2 dẫn S đến đoạn đường tàu không rõ địa chỉ gặp một người đàn ông không quen biết, người đàn ông này đưa cho S 02 thùng bia cát tông bên trong có số lượng pháo như S đã hẹn mua. S đưa người đàn ông này 12.000.000đ. Sau đó S nhờ H3 thuê 01 chiếc taxi để chở hàng về. H3 đi được khoảng 05 phút rồi quay lại cùng 01 chiếc taxi hãng Sun taxi do Nguyễn Văn H1 điều khiển. Sau đó, H3 và S bê hai thùng cát tông lên đằng sau xe taxi trên rồi S lên xe taxi bảo chở về KCN S, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh. S khai mua pháo để bán kiếm lời.
Với nội dung trên, án hình sự sơ thẩm số 92 ngày 09/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Buôn bán hàng cấm”. Áp dụng khoản 1 Điều 155; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày09/12/2017.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyết định tạm giam, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Án sơ thẩm xử xong, ngày 12/02/2018, bị cáo Nguyễn Văn S kháng cáo xingiảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo cho rằng Tòa sơ thẩm xử bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng, không oan, tuy nhiên mức hình phạt là 30 tháng tù là nặng. Tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm trở về với xã hội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt củabị cáo, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo, những người khác tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn S mua 49,25kg pháo nổ và pháo hoa nổ nhằm mục đích bán kiếm lời. Các loại pháo nổ và pháo hoa nổ là loại hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng và bị cáo Nguyễn Văn S không thuộc diện được Nhà nước cấp phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam. Do đó hành vi mua đi bán lại pháo nổ và pháo hoa của bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLHS.
Xem xét nội dung kháng cáo của bị cáo, HĐXX phúc thẩm thấy:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Bị cáo có đủ nhận thức để biết hành vi mua bán hàng hóa mà Nhà nước cấm là vi phạm pháp luật, tuy nhiên vì muốn thu lợi một cách nhanh chóng bị cáo vẫn bất chấp quy định pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo bằng luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Án sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 30 tháng tù là đã xem xét đến tính nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và nhân thân cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Sau khi án sơ thẩm xử xong, gia đình bị cáo mới xuất trình cho Tòa án biên lai nộp tiền 5.000.000đ tại Thi hành án và bản sao huân chương chiến sỹ giải phóng của ông Nguyễn Văn V là bố đẻ bị cáo. Hội đồng xét xử thấy án sơ thẩm không áp dụng hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung là phạt tiền và bị cáo cũng không có nghĩa vụ phải bồi thường khoản tiền nào khác nên cần trả lại số tiền 5.000.000đ đã nộp cho bị cáo. Đối với huân chương chiến sỹ giải phóng của bố đẻ bị cáo được xác định là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS tuy nhiên án sơ thẩm phạt bị cáo mức án 30 tháng tù trong khi mức cao nhất của khung hình phạt là 05 năm là đã xem xét giảm nhẹ cho bị cáo nên bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới cũng không xem xét để giảm nhẹ hơn nữa cho bị cáo. Vì vậy, kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S không được chấp nhận, cần giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 155; điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), xử phạt:
Bị cáo Nguyễn Văn S 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2017.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Trả lại bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0001765 ngày 25/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Áp dụng Điều 347 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm để đảm bảo thi hành án.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2018/HSPT ngày 17/04/2018 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 21/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về