Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 53/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vi Thị H – sinh năm 1984 Hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã P.A, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai.

Nơi ở: Xóm K.S, xã Đ.V, huyện T.K, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Đỗ Hồng K – sinh năm 1960 Địa chỉ: Ấp 1, xã P.A, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai.

(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh K vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vi Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh K kết hôn tự nguyện, có đăng ký ngày 22/7/2009 tại Ủy ban nhân dân xã P.A. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, anh K thường xuyên đi uống rượu và về nhà gây sự chửi mắng đánh chị, không quan tâm đến gia đình, chị khuyên can nhưng anh không thay đổi. Anh chị đã nhiều lần nói chuyện hòa giải đoàn tụ nhưng không thành nên đã không còn chung sống từ năm 2013 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn đối với anh.

- Về nuôi con: Chị H trình bày có 02 (Hai) con chung là Đỗ Thành Đ – sinh ngày 11/6/2009 và Đỗ Thành T – sinh ngày 09/01/2011. Chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản: Chị H trình bày chị và anh K không có tài sản chung và nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Đỗ Hồng K trình bày:

- Về hôn nhân: Anh K và chị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký theo quy định của pháp luật. Vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn do phía chị H có mối quan hệ với những người không đàng hoàng, bản thân anh chị thường hay gây sự đánh nhau. Anh chị không còn sống chung từ năm 2013 do chị H bỏ đi làm công nhân, rồi về quê sinh sống, sau đó chị có trở về P.A chung sống được mấy ngày thì lại tiếp tục bỏ nhà đi. Thấy tình cảm không còn, hôn nhân không mục đích không thể hòa giải được, vì vậy chị yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.

- Về nuôi con: Anh K thừa nhận có 02 (Hai) con chung là Đỗ Thành Đ – sinh ngày 11/6/2009 và Đỗ Thành T – sinh ngày 09/01/2011. Chị H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đạt và cháu Tài, tạm thời không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng cho con thì anh không đồng ý. Từ khoảng năm 2014 thì chị H đưa cháu Đỗ Thành T đi, từ khoảng năm 2015 thì chị H về đưa cháu Đạt đi, anh có báo cáo công an xã P.A nhưng không tìm được. Nay anh không biết chị H đưa các con đi đâu, làm gì có đảm bảo cuộc sống và cho các con học hành hay không. Anh thấy hiện nay anh có cuộc sống kinh tế đầy đủ, khá giả đủ khả năng nuôi dưỡng con chung.

Anh có nguyện vọng nuôi dưỡng 01 (Một) cháu tùy theo nguyện vọng của các cháu chứ không ép buộc các cháu phải ở với anh, tuy nhiên bản thân anh có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Đỗ Thành Đ và đồng ý chị H nuôi dưỡng cháu Tài, tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản: Anh K trình bày anh chị không có tài sản chung và không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho bị đơn và thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; bị đơn không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của chị H. Về hôn nhân: Cho chị H được ly hôn với anh K. Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi các con chung, tạm thời anh K chưa phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản: Anh chị trình bày không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Bị đơn anh Đỗ Hồng K có nơi cư trú tại xã P.A, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Chị Vi Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh K, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định tư cách đương sự chị H là nguyên đơn và anh K là bị đơn, được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã được cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên hòa giải nhưng có đơn giải quyết vắng mặt; bị đơn có mặt. Vì vậy, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị H và anh K được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P.A, huyện T.P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật ngày 11/7/2009. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Chị H trình bày trong quá trình chung sống thì anh chị có xảy ra mâu thuẫn vì bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường xuyên cự cãi, đánh nhau. Từ năm 2013 đến nay, anh chị đã không còn chung sống, đã nói chuyện để tự hòa giải nhưng không thành. Anh K trình bày thừa nhận anh chị có mâu thuẫn, bản thân chị có mối quan hệ với những người khác không đàng hoàng, không thể hòa giải đoàn tụ nên đồng ý ly hôn. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về tình trạng hôn nhân tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác cũng thể hiện phù hợp với lời khai của các đương sự.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định, chị H và anh K đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận.

- Về nuôi con: Chị H yêu cầu trực tiếp nuôi các cháu Đỗ Thành Đ – sinh ngày 11/6/2009 và Đỗ Thành T – sinh ngày 09/01/2011, tạm thời không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng cho con. Anh K có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Đ và đồng ý chị H nuôi dưỡng cháu T, tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng cho con. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện: Từ sau khi anh chị không còn chung sống năm 2015, các con chung đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng, hiện chị đang làm công nhân thu nhập ổn định, bản thân chị có trách nhiệm chăm sóc và đủ khả năng nuôi dưỡng các cháu; anh K thường hay uống rượu, nghề nghiệp làm rẫy thu nhập không ổn định và đang phải nuôi dưỡng các con chung đối với vợ trước. Đối với các con chung đủ 07 (bảy) tuổi trở lên đều có nguyện vọng muốn ở với chị H. Căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng cho con của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận, đối với yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng cho con của bị đơn không có cơ sở để chấp nhận.

- Về tài sản: Chị H và anh K trình bày anh chị không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

- Điều 11, Điều 91, Điều 92, Điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vi Thị H.

- Về hôn nhân: Cho chị Vi Thị H được ly hôn với anh Đỗ Hồng K.

- Về nuôi con: Giao cho chị Vi Thị H trực tiếp nuôi các con chung là Đỗ Thành Đ – sinh ngày 11/6/2009 và Đỗ Thành T – sinh ngày 09/01/2011, tạm thời anh K chưa phải cấp dưỡng cho con.

Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản: Chị Vi Thị H và anh Đỗ Hồng K trình bày anh chị không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí: Chị Vi Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 006141 ngày 05/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về