Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 53/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh P tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2020/TLST- HNGĐ ngày 01/6/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐST- HNGĐ ngày 14/7/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đào Thành L, sinh năm 1983; ĐKHKTT: Khu 8A (nay là khu 8), xã C, thành phố V, tỉnh P.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993; ĐKHKTT: Khu 8A (nay là khu 8), xã c, thành phố V, tỉnh P. Hiện chị H đang lao động tại N.

(Anh L có đơn xin xét xử vắng mặt, chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình t tụng nguyên đơn anh Đào Thành L trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H đăng ký kết hôn ngày 04/01/2012 tại UBND xã C, thành phố V, tỉnh P. Trước khi kết hôn hai bên tự do tìm hiểu, đăng ký kết hôn tự nguyện , không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống cùng mẹ đẻ anh L tại khu 8A (nay là khu 8), xã C, thành phố V, tỉnh P. Quá trình chung sống vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì chị H đi xuất khẩu lao động tại N. Từ năm 2015 đến đầu năm 2018 chị H vẫn tH xuyên liên lạc với anh L, sau đó khoảng giữa năm 2018 thì chị H cắt đứt mọi liên lạc với anh. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng sống xa nhau thời gian dài nên tình cảm lạnh nhạt dần, không còn sự thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Hiện nay chị H vẫn đang lao động tại N và chưa quay trở lại V. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh L đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh P giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Anh L xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Đào Bảo Yến N, sinh ngày 10/3/2013 và cháu Đào Phương T, sinh ngày 08/6/2014. Khi ly hôn anh L xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không đề nghị chị H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Anh L xác định vợ chồng không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Anh L trình bày hiện nay anh không biết địa chỉ của chị H ở N nên anh không thể cung cấp địa chỉ của chị H cho Tòa án được. Anh L đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của chị H tại N thông qua bố mẹ đẻ của chị H là ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1971 có địa chỉ tại: Khu 1, thôn H, xã B, huyện S, tỉnh V.

Thân nhân của chị Nguyễn Thị H - ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị L trình bày: Ông bà là bố mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị H. Hiện nay, chị H đang làm việc tại N. Chị H thỉnh thoảng vẫn gọi điện về cho ông bà. Chị H chỉ nói với ông bà hiện đang ở N nhưng không nói rõ địa chỉ cụ thể ở đâu nên ông bà không thể cung cấp địa chỉ của chị H ở N cho Tòa án. Việc anh L xin ly hôn chị H, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Tòa án xử cho anh Đào Thành L được ly hôn chị Nguyễn Thị H. về con chung: Giao cháu Đào Bảo Yến N, sinh ngày 10/3/2013 và cháu Đào Phương T, sinh ngày 08/6/2014 cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung thành niên. Chị Nguyễn Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đào Thành L do anh L không yêu cầu. Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Do anh L xác định không có nên không yêu cầu nên không giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Đào Thành L phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án , được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của các đương sự và ý kiến của đại diện Viện kim sát tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận đnh như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Anh Đào Thành L khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh P giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị H là quan hệ “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong đơn xin ly hôn, anh L trình bày hiện chị H đang sống và làm việc tại N. Tại văn bản số 8306/QLXNC-P5 ngày 09/6/2020 của Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an (BL 34) xác nhận “Nguyễn Thị H, sinh ngày 25/4/1993, khai địa chỉ ở khu 8A, C, thành phố V, tỉnh P đã xuất cảnh ngày 31/01/2016, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước”. Căn cứ khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh P thụ lý và giải quyết, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền.

[2]. Về nội dung: Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, anh Đào Thành L và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, đăng ký kết hôn tại UBND xã C, thành phố V, tỉnh P ngày 04/01/2012. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng sống xa nhau thời gian dài nên tình cảm lạnh nhạt , không có sự quan tâm , chăm sóc, thương yêu nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh Đào Thành L đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Chị Nguyễn Thị H hiện đang ở nước ngoài, anh Đào Thành L chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của chị H ở Việt Nam, không cung cấp được địa chỉ của chị H ở nước ngoài cho Tòa án. Theo yêu cầu của anh Đào Thành L, Tòa án nhân dân tỉnh P đã xác minh địa chỉ của chị H ở nước ngoài thông qua bố mẹ đẻ của chị H là ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1971 có địa chỉ tại: Khu 1, thôn H, xã B, huyện S, tỉnh V. Ông H và bà L xác nhận chị H hiện đang ở N, chị H thỉnh thoảng có gọi điện cho ông bà nhưng không nói rõ địa chỉ cụ thể ở đâu nên ông bà không cung cấp được địa chỉ của chị H tại N cho Tòa án. Căn cứ Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương về quan hệ hôn nhân, tình trạng hôn nhân giữa anh Đào Thành L và chị Nguyễn Thị H ngày 08/7/2020 (BL 39) thể hiện: Cuộc sống vợ chồng giữa anh L và chị H có mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng chênh lệch tuổi tác, khác nhau về suy nghĩ, lối sống, quan điểm sống. Quan điểm của chính quyền địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa anh Đào Thành L và chị Nguyễn Thị H mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đ- ọc, nên việc anh Đào Thành L đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do vậy đề nghị xin ly hôn của anh Đào Thành L được chấp nhận.

[3]. Về con chung: Anh Đào Thành L xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Đào Bảo Yến N, sinh ngày 10/3/2013 và cháu Đào Phương T, sinh ngày 08/6/2014. Khi ly hôn anh L xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung đến khi thành niên và không đề nghị chị H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Xét thấy chị Nguyễn Thị H hiện đang ở nước ngoài không thể trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho cháu Nhi và cháu Trang nên để đảm bảo cho cả hai cháu có điều kiện phát triển tốt nhất, cần giao cháu Đào Bảo Yến N và cháu Đào Phương T cho anh Đào Thành L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đào Thành L không yêu cầu chị Nguyễn Thị H có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4]. Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Anh Đào Thành L xác định vợ chồng không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5]. Về án phí: Anh Đào Thành L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, Điều 37,Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đào Thành L được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

[2]. Về con chung: Giao cháu Đào Bảo Yến N, sinh ngày 10/3/2013 và cháu Đào Phương T, sinh ngày 08/6/2014 cho anh Đào Thành L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nhi, cháu Trang thành niên. Chị Nguyễn Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đào Thành L do anh L không yêu cầu. Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

[3]. Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Anh Đào Thành L xác định không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí: Anh Đào Thành L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận anh L đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu số AA/2019/0004215 ngày 28/5/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh P.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Anh Đào Thành L được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ khi nhận được Bản án để đề nghị Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Chị Nguyễn Thị H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được Bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:53/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về