Bản án 53/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/TLST-HS, ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T, sinh ngày 13 tháng 11 năm 1996, tại huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nơi cư trú: Thôn Q, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T1, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử phạt; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 25/3/2019 đến nay, có mặt.

- Bị hại:

1, Anh Nông Văn T, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

2, Chị Nông Thị T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1, Anh Đinh Văn N, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

2, Anh Nông Quốc H, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

3, Lý Văn T.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2015 Hoàng Văn T làm phụ hồ xây dựng nhà cho gia đình anh Nông Văn T tại thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 06/9/2018 T đi vào xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc chơi, đến buổi tối cùng ngày do không có chỗ ngủ nên T đến nhà anh T xin ngủ nhờ, anh T đồng ý và cho T lên phòng trên tầng hai ngủ. Khoảng 08 giờ sáng hôm sau ngày 07/9/2018 T ngủ dậy đi xuống dưới nhà thì thấy anh T vẫn đang ngủ trong phòng, T mở cửa ra sân thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave a, biển kiểm soát 12D1-149.50 của gia đình anh T để ở ngoài sân, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ điện. T nẩy sinh ý định lấy trộm liền dắt xe mô tô ra cổng và nổ máy xe điều khiển ra hướng thành phố Lạng Sơn để tìm nơi bán xe, khi T đi đến khu vực bãi đất trống thuộc Tổ 5, khối 1, thị trấn Cao Lộc, huyện Cao Lộc, T dừng xe và tháo biển số xe ném đi rồi tiếp tục điều khiển xe đến một cửa hiệu sửa chữa xe máy có địa chỉ tại số 636, đường T, xã H, thành phố L do Trần Tiến H là chủ cửa hiệu, T bán chiếc xe trên được 900.000đ (chín trăm nghìn đồng). Sau đó T bắt xe khách đi thành phố C, tỉnh Quảng Ninh làm thuê. Đến ngày 24/3/2019, T vào nhà bác họ ở xã B, huyện C chơi, tại đây T gặp chị Nông Thị T (Chị T là vợ của Nông Văn T), do nghi ngờ T là người đã lấy trộm xe mô tô của gia đình trước đó nên chị T đã gọi điện cho bố là ông Tô Văn P đến trình báo Đồn Biên phòng Bảo Lâm. Sau khi tiếp nhận tin báo của ông P, Đồn Biên phòng Bảo Lâm đã đưa Hoàng Văn T về trụ sở làm việc, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngày 25/3/2019, Đồn biên phòng Bảo Lâm đã bàn giao Hoàng Văn T cho Công an huyện Cao Lộc để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản kết luận định giá tài sản số 07/KLĐGTSHS, ngày 28/03/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Cao Lộc kết luận: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12D1-149.50, nhãn hiệu honda Wavea, màu đen có giá trị 9.567.000đ (chín triệu năm trăm sáu mươi bẩy nghìn đồng).

Ngày 08/9/2018, Nông Văn T đã nhận được chiếc xe Honda Wave a do Đinh Văn N giao cho để mang về sử dụng đi lại.

Bản Cáo trạng số 53/CT-VKS, ngày 30/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi pham tội của mình như tại cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố; người bị hại anh Nông Văn T, chị Nông Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự;

về hình phạt yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viên kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 09 đến 12 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự do bị hại, người liên quan không yêu cầu nên không xem xét giải quyết; về vật chứng của vụ án đề nghị truy thu số tiền 900.000đ do bị cáo phạm tội mà có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Khoảng 08 giờ ngày 07 tháng 9 năm 2018, Hoàng Văn T lợi dụng lúc gia đình anh Nông Văn T vẫn ngủ, T đã lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wavea, biển kiểm soát 12D1-14950 của gia đình anh Nông Văn T, trú tại thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, T đem bán được 900.000đ, số tiền trên T đã chi tiêu hết. Kết luận trị giá chiếc xe trên là 9.567.000đ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hoàng Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[2] Cáo trạng số 53/CT-VKS, ngày 30/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra, truy tố quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Đây là vụ án trộm cắp tài sản hậu quả xẩy ra là ít nghiêm trọng, nhưng đã tạo dư luận xấu gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do muốn có tiền để phục vụ mục đích cá nhân nên cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[5] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt; về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

[6] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung. Xét thấy hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội. Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nông Văn T, chị Nông Thị T đã nhận được tài sản, không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự; người liên quan cũng không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wavea, biển kiểm soát 12D1 – 14950 ngày 08/9/2018, bị hại anh Nông Văn T đã nhận được chiếc xe Honda Wave a do Đinh Văn N giao cho để mang về sử dụng đi lại. Số tiền bị cáo bán xe được 900.000đ là tiền do phạm tội mà có nên cần truy thu số tiền trên để nộp ngân sách nhà nước.

[10] Đối với Trần Tiến H, sinh năm 1989 là chủ hiệu sửa chữa xe tại địa chỉ số 636, đường T, xã H, thành phố L, trong quá trình điều tra, Hoàng Văn T khai bán chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wavea cho H, tuy nhiên qua đấu tranh khai thác cửa hiệu của H chỉ sửa chữa xe không thu mua xe máy cũ, bản thân H cũng chưa từng gặp Hoàng Văn T. Ngoài lời khai của T, không có tài liệu nào khác để chứng minh có sự việc mua bán chiếc xe trên giữa T và H, vì vậy không có cơ sở để xem xét xử lý đối với Trần Tiến H

[11] Đối với Đinh Văn N, sinh năm 1988, trú tại thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn đã mua chiếc xe Honda Wavea với giá 3.400.000đ trên mạng xã hội Facebook với một người đàn ông (N không biết rõ, tên, tuổi, địa chỉ của người này). Sau khi mua xe xong, N đem chiếc xe mô tô ra hiệu sửa chữa xe máy do Nông Quốc H, sinh năm 1997, trú tại thôn N, xã T, huyện C là chủ cửa hiệu để sửa chữa, trong khi đang sửa xe H nói với N xe này giống xe của Nông Văn T ở thôn N, xã T, huyện C, mấy hôm trước T mang xe ra đây để bảo dưỡng. Nghe H nói vậy, N đã liên hệ với T, sau khi T xem chiếc xe Honda Wavea nhận ra xe của mình và nói với N xe này bị kẻ trộm lấy, N đã trả lại chiếc xe cho T để mang về sử dụng. Do đó Đinh Văn N khi mua xe không biết do trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý trong vụ án này.

[12] Đối với người bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wavea cho Đinh Văn N qua Facebook, N chỉ gặp một lần duy nhất, sau khi bán xe, bài viết đăng trên trang mạng chợ Lạng Sơn đã bị xóa, số điện thoại của người bán xe, N không lưu lại. Do vậy không có cơ sở để xác định nhân thân, lai lịch của người này nên không có căn cứ để xử lý.

[13] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 25 tháng 3 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Hoàng Văn T phải nộp truy thu số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) bị cáo phạm tội mà có để nộp ngân sách nhà nước.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về