Bản án 53/2019/HS-ST ngày 13/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 13/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố (viết tắt là TP) Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy T, sinh năm 1984, tại Hà Nam; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ dân phố N, phường C, thành phố Phủ Lý; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Duy R và bà Trần Thị Th, vợ, con: chưa có; tiền án: Ngày 05/02/2018, Tòa án nhân dân Quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Tiền sự: Ngày 31/10/2018, Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Phủ Lý ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời gian 03 tháng; Ngày 23/10/2017, Tòa án nhân dân thành phố P ra quyết định áp dụng cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; Nhân thân: Ngày 16/6/2006, Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 12/9/2008, Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù về tội: “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 10/7/2009, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Ngày 28/6/2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng; Ngày 25/11/2016 Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xử miễn trách nhiệm hình sự về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/01/2019, chuyển tạm giam từ ngày 25/01/2019 đến nay; Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Đa chỉ: Tổ 4, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1960. Vắng mặt.

Đa chỉ: Tổ 2, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ 30 phút ngày 19/01/2019, Nguyễn Duy T điều khiển xe mô tô BKS: 90F7-1290 từ nhà đến đầu cầu Châu Sơn thuộc tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại đây T gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi lái xe ôm đứng ở ven đường (T không biết tên ,tuổi, địa chỉ của người đàn ông). T hỏi người đàn ông để mua ma túy. Người đàn ông đồng ý, T đưa cho người đàn ông 200.000đ. Người này cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô đi một lúc sau quay lại đưa cho T 01 gói giấy bạc màu vàng. T cất vào túi quần bên phải phía trước đang mặc, rồi điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi T điều khiển xe mô tô đến đường bờ kè thuộc tổ 2, phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thì bị lực lượng Công an phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT 01; 01 xe mô tô nhãn hiệu DETECH màu đỏ BKS 90F7-1290; số tiền 1.500.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vietel màu vàng đen.

Khám xét khẩn cấp đối với nơi ở, đồ vật, tài sản của Nguyễn Duy T tại tổ dân phố N, phường C, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 21/PC09-MT ngày 23/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 là ma túy, có khối lượng 0,147 gam, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS-PL ngày 25 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Duy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Duy T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T mức án từ 30 đến 36 tháng tù, không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo không tranh luận, không bào chữa và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên việc xét xử vắng mặt người làm chứng và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 9 giờ 00 phút ngày 19/01/2019, tại đường bờ kè thuộc tổ 2, phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Duy T đang cất giữ trái phép 0,147 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. (Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 9, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ). Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy T đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu về các hành vi vi phạm liên quan đến ma túy và xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Trong đó từ năm 2011 đến nay đã hai lần bị tòa án xét xử về hành vi phạm tội liên quan đến ma túy và hai lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học lại tiếp tục phạm tội nghiêm trong cho thấy bị cáo coi thường bất chấp pháp luật, rất khó tự cải tạo bản thân Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đang có một tiền án về tội với lỗi cố ý trực tiếp nay lại phạm tội nghiêm trọng do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo mà còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Phủ Lý, đồng thời là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc khi lượng hình vừa để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích vừa có tác dụng phòng ngừa chung trong cộng đồng.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

- Toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của Nguyễn Duy T cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH, màu đỏ, BKS: 90F7-1290 qua xác minh tên chủ sở hữu của chiếc xe là Nguyễn Văn L nhưng L đã bán cho T vì vậy chiếc xe thuộc quyền sở hữu của T, T đã sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội vì vậy cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu vàng đen và số tiền 1.500.000đ là tài sản hợp pháp của T không liên quan đén hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Nguyễn Duy T nhưng cần tạm giữ lại số tiền 1.500.000đ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đánh giá các tình tiết khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của T, T khai mua của người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã áp dụng các biện pháp điều tra xác minh làm rõ nhưng vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người đã bán ma túy cho T, ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh việc người đàn ông đã bán ma túy cho T . Do đó không có căn cứ xử lý trong trong vụ án này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50 BLHS.

- Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Xử phạt Nguyễn Duy T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2019.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi: Mẫu vật hoàn trả QT 21/PC09 - MT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam. Mặt sau có các chữ ký của Nguyễn Thị Lan Hương, Lưu Thị Ngọc Ánh; 01 (một) chữ ký có đóng dấu chức danh của trưởng phòng Trung tá Nguyễn Đại Hữu và 03 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH; BKS: 90F7 – 1290; Số máy VDEJQ152FMH*002815*, số khung: VDEWWCH094DE*002815*.

- Trả lại cho Nguyễn Duy T chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu vàng đen và số tiền 1.500.000đ nhưng cần tạm giữ lại số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 04/5/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý và ủy nhiệm chi số 28 ngày 10/5/2019).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Duy T phải nộp 200.000đ. (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 13/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về