Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG- THÁP CHÀM , TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 53/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 460/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17-9-2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2019/QĐST- HNGĐ ngày 03-10- 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Đào Xuân H, sinh năm: 1981. (có mặt)

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1980. (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 12-7-2019, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Nguyên đơn ông Đào Xuân H trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị T sau một thời gian tìm hiểu đã tiến đến hôn nhân tự nguyện, vợ chồng có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 111 ngày 25 tháng 12 năm 2006.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn phát sinh từ năm 2016 do vợ chồng bất đồng trong quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vả. Ngoài ra, vợ chồng còn có mâu thuẫn về vấn đề kinh tế gia đình do bà T vay mượn tiền nhiều nơi, lâm vào cảnh nợ nần...Cuối năm 2016 bà T bỏ đi, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Thỉnh thoảng, bà T có liên lạc và về thăm các con nhưng vợ chồng không ai đặt vấn đề trở về chung sống cùng nhau nữa.

Vào tháng 02/2019, ông đã nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với bà T nhưng sau đó rút đơn. Nay vợ chồng không thể hàn gắn được nên ông đề nghị Tòa giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung là cháu Đào Minh H, sinh ngày 17/6/2008 và Đào Thái A, sinh ngày 29/4/2013. Ông đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu bà T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, hai con vẫn đang sinh sống cùng ông.

Hiện ông làm bộ đội, thu nhập bình quân mỗi tháng hơn 12.000.000 đồng. Bà T bán nước uống, thu nhập khoảng 7- 8 triệu đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Bị đơn bà Nguyễn Thị T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng Bị đơn vắng mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn xin ly hôn và xin nuôi 02 con chung, không yêu cầu Bị đơn cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay Bị đơn tiếp tục vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, HĐXX thấy rằng:

[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa ông Đào Xuân H và bà Nguyễn Thị T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Tại phiên tòa ông H trình bày mâu thuẫn phát sinh do vợ chồng bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, bà T vay mượn tiền nhiều nơi nhưng giấu không cho ông biết, sau đó lâm vào cảnh nợ nần phải bỏ đi từ cuối năm 2016, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay…xét thấy lời trình bày của ông H được Hội LHPN phường P xác nhận (BL 10). Hơn nữa quá trình giải quyết vụ án, ông H đã cung cấp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 113/2019/QĐST- HNGĐ ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm (BL 09); việc ông H tiếp tục nộp đơn đến Tòa lần thứ 2 cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng. Mặt khác bà T không đến Tòa làm bản khai, không tham gia các buổi hòa giải, xét xử... cho thấy bà T có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra, không có thiện chí hàn gắn.

Xét thấy vợ chồng đã ly thân một thời gian dài, mạnh ai nấy sống, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông H.

[2.3] Về quan hệ con cái: ông H hiện đang trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, bà T đã bỏ đi. Hơn nữa ông H là bộ đội, đủ điều kiện kinh tế để nuôi dưỡng 02 con. Cháu H có nguyện vọng ở với cha. Bà T cũng không có ý kiến gì về vấn đề con cái xem như tự từ bỏ quyền lợi của mình. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung là cháu Đào Minh H, sinh ngày 17/6/2008 và Đào Thái A, sinh ngày 29/4/2013 cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng; bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông H không yêu cầu.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này.

[2.5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: ông Đào Xuân H được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

Về quan hệ con cái: ông Đào Xuân H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Đào Minh H, sinh ngày 17/6/2008 và Đào Thái A, sinh ngày 29/4/2013. Bà Nguyễn Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông Đào Xuân H không yêu cầu. (Các con hiện nay đang ở với ông H).

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với con chung, không ai được ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung.

Về án phí: ông Đào Xuân H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0019798 ngày 12/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Ông H đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về