Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 53/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 85/2019/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2019/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2019, quyết định thay đổi Hội thẩm nhân dân số 33/2019/QĐ-TĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 64/2019/QĐST-DS ngày 14 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Ngọc M, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Số 01, đường Phan Văn Trị, tổ 3, khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Mạnh H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Số 51, đường T, khu phố 9, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa vắng mặt chị M (có đơn xin xét xử vắng mặt lập ngày 10/5/2019) và anh H không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 3 năm 2019, các bản khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được, đơn xin xét xử vắng mặt, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị Ngọc M trình bày: Chị và anh Nguyễn Bá Mạnh H tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Võ Xu, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Quá trình chung sống giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H không lo làm ăn, ham chơi cờ bạc, chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H vẫn không thay đổi. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc nên chị và anh H đã ly thân từ tháng 3/2019 cho đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng bị sức mẻ, không thể hàn gắn lại được, đời sống chung không thể kéo dài, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anh H có với nhau 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 22/7/2010 và Nguyễn Ngọc NH, sinh ngày 04/4/2016. Hiện các con đang sống chung với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng do bị đơn anh Nguyễn Bá Mạnh H không đến Tòa án nên không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật TTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật TTDS. Bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật TTDS.

Chị Đặng Thị Ngọc M không còn tình cảm với anh Nguyễn Bá Mạnh H, anh chị đã sống ly thân, giữa vợ chồng không thể tiếp tục hòa hợp, hàn gắn được nữa; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị M là có căn cứ và đúng pháp luật.

Anh chị có 02 con chung: Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 22/7/2010 và Nguyễn Ngọc NH, sinh ngày 04/4/2016. Hai cháu hiện đang sống chung với chị M, chị M có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung, 02 cháu còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, còn anh H không có nơi ở ổn định. Chị M không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình để giao 02 con chung cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; anh H không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thủ tục thụ lý đơn khởi kiện và thụ lý vụ án: Nguyên đơn làm đơn khởi kiện và Tòa án đã thụ lý vụ án là đúng pháp luật.

[1.2] Về thẩm quyền: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

[1.3] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào lời khai của các đương sự và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở để khẳng định đây là quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.4] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai về việc giao giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn anh Nguyễn Bá Mạnh H nhưng đương sự vẫn vắng mặt. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt lập ngày 10/5/2019. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Ngọc M và anh Nguyễn Bá Mạnh H tự nguyện kết hôn vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Võ Xu, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị không có sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ lẫn nhau dẫn đến cuộc sống hôn nhân bị lạnh nhạt, không mang lại hạnh phúc nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 3/2019 đến nay. Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải để vợ chồng anh chị được đoàn tụ, tiếp tục chung sống với nhau nhưng anh H vẫn không đến Tòa án để tham gia hòa giải, điều đó cho thấy anh H không muốn níu kéo và không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này. Do đó, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn là phù hợp pháp luật.

[2.2] Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 22/7/2010 và Nguyễn Ngọc NH, sinh ngày 04/4/2016. Xét thấy, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng thì cần căn cứ vào nguyện vọng của con và quyền lợi về mọi mặt của các con. Cháu Q có nguyện vọng được sống chung với mẹ, còn cháu Ý chỉ hơn 36 tháng tuổi, các cháu hiện đang sống chung với mẹ. Chị M là người có phẩm chất đạo đức tốt, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị M là phù hợp pháp luật. Chị M không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con, thấy rằng yêu cầu này là sự tự nguyện nên không phải xem xét. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không phải xem xét.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M là người khởi kiện ly hôn nên chị phải chịu toàn bộ án phí DSST theo luật định, nhưng được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

[2.5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1/ Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Ngọc M ly hôn anh Nguyễn Bá Mạnh H.

2/ Về con chung: Giao cho chị Đặng Thị Ngọc M được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con Nguyễn Ngọc Như Q, sinh ngày 22/7/2010 và Nguyễn Ngọc NH, sinh ngày 04/4/2016. Anh Nguyễn Bá Mạnh H không phải cấp dưỡng nuôi con, có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không phải xem xét.

4/ Về án phí: Chị Đặng Thị Ngọc M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0025205 ngày 25/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ. Chị M đã nộp đủ án phí DSST.

5/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (08/7/2019), đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về