Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 01/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 53/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 01 tháng 07 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 62/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019, về việc: “Xin ly hôn, nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 21 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1977 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: ấp TMB, xã CA, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long.

*Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1982 (vắng mặt). 

Địa chỉ: ấp TMB, xã CA, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Thành L trình bày: Nguyên vào năm 2007, anh và chị N kết hôn theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 26/3/2007 tại UBND CA, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26 quyển số 01/2007.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống ở ấp Tân Mỹ, xã CA, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian đầu chung sống hòa thuận hanh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do vợ anh có tình cảm với người đàn ông khác, vợ anh đã bỏ nhà đi từ tháng 11/2018 âm lịch, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn lại được nên yêu cầu được ly hôn với vợ là Nguyễn Thị N. Con chung: quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên là Nguyễn Đinh K, sinh ngày 07/11/2007 hiện anh đang nuôi. Sau khi ly hôn, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, không yêu cầu vợ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung phải thu – phải trả: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có thông báo cho bị đơn Nguyễn Thị N biết về việc thụ lý vụ án cũng như các yêu cầu khởi kiện và tài liệu, chứng cứ của anh L cung cấp. Nhưng chị N không có văn bản trả lời và vắng mặt tại các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án không lý do.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Nguyễn Thành L có đơn xin Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn chị Nguyễn Thị N vắng mặt không có lý do.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán; Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh L. Xử cho anh Lđược ly hôn với chị N. Về con chung tiếp tục giao cháu Nguyễn Đinh K, sinh ngày 07/11/2007 cho anh L nuôi dưỡng, chị N không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Thành L có đơn đề ngày 03/4/2019 xin Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định cho chị Nguyễn Thị N nhưng chị N vắng mặt không rõ lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Luận, chị N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: năm 2011, anh L và chị N kết hôn theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 26/3/2007 tại UBND CA, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26 quyển số 01/2007 nên quan hệ hôn nhân giữa anh L và chị N là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Anh L cho rằng thời gian đầu chung sống hòa thuận hanh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do vợ anh có tình cảm với người đàn ông khác, vợ anh đã bỏ nhà đi từ tháng 11/2018 âm lịch, vợ chồng ly thân từ đó đến nay chứng tỏ rằng mâu thuẩn vợ chồng trở nên trầm trọng, không thể hàn gắn được. Như vậy có đủ cơ sở Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh L với chị N là phù hợp với Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: cháu Nguyễn Đinh K, sinh ngày 07/11/2007 anh L yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản hòa giải ngày 03/4/2019 cháu K cũng có nguyện vọng sống với cha là anh L nếu cha mẹ ly hôn nhau. Xét trong thời gian vợ chồng mâu thuẩn cháu K sống với anh L, cuộc sống sinh hoạt, học tập của cháu K ổn định. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh L: tiếp tục giao Nguyễn Đinh K cho anh L nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81 và 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về cấp dưỡng nuôi con do bên trực tiếp nuôi con không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: anh L phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thành L.

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Thành L được ly hôn với chị Nguyễn Thị N.

2/Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Đinh K, sinh ngày 07/11/2007 cho anh Nguyễn Thành L tiếp tục nuôi dưỡng. Do bên trực tiếp nuôi dưỡng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét.

Bên không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3/Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4/ Về án phí: Anh Nguyễn Thành L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ từ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Thít theo lai thu số No 0006902, ngày 11/3/2019, anh L không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 01/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:53/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về