Bản án 53/2018/HS-ST ngày 25/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 53/2018/HS-ST NGÀY 25/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/HSST ngày 11 tháng 6 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2018/ QĐXXST- HS ngày 13 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H - Sinh năm 1995 tại xóm 18 Xã G, Huyện G, tỉnh N; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm 18, Xã G, Huyện G, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Theo đạo thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Q - Sinh năm 1965 và bà Đinh Thị M - Sinh năm 1968 đều là lao động tự do trú tại xóm 18 Xã G, Huyện G, tỉnh N. Vợ: Trần Thị T - Sinh năm 1996 làm ruộng và trú tại xóm 18 Xã G, Huyện G, tỉnh N. Có 02 con; lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam tính từ ngày bị bắt tạm giữ 20/4/2018 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

1. Anh Đinh Văn K - Sinh năm 1960.

2. Chị Đinh Thị M - Sinh năm 1968.

Đều trú tại: Xóm 18, Xã G, Huyện G, tỉnh N.

Tại phiên tòa: Có mặt bị cáo; người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 19/4/2018, Tổ tuần tra Đồn Biên phòng Ba Lạt - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định phối hợp cùng Công an xã Giao Thiện tuần tra tại trục đường thuộc xóm 18 xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy phát hiện Nguyễn Văn H có biểu hiện cất giấu ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Văn H. Nguyễn Văn H đã tự giác giao nộp cho tổ tuần tra 01 gói giấy ni lông màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Hkhai đó là Heroine, Hcất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngày 20/4/2018 Đồn Biên phòng Ba Lạt - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam định đã đưa 01 gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Hđi giám định.Tại bản kết luận giám định số: 351/GĐKTHS ngày 20/04/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi đi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Trọng lượng (khối lượng) mẫu M: 0,408 gam.

Ngày 20/4/2018 Đồn Biên phòng Bà Lạt chuyển hồ sơ vụ án và vật chứng bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy để điều tra theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Giao Thủy, cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số:45/CT - VKS ngày 08/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có trọng lượng (khối lượng) là: 0,408 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 15 đến 18 tháng tù. Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, con còn nhỏ nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về tội danh: Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 19/4/2018, Tổ tuần tra Đồn Biên phòng Ba Lạt - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng phối hợp cùng Công an xã Giao Thiện tuần tra tại trục đường thuộc xóm 18 xã Giao Thiện phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn H đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy, bị cáo khai đi mua về để sử dụng cho bản thân. Vật chứng được thu giữ niêm phong gửi đi giám định: Tại bản kết luận giám định số: 351/GĐKTHS ngày20/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi đi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Trọng lượng (khối lượng) là: 0,408 gam. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người. Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân dẫn tới phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

 [3] Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo c ó xác nhận của Đồn biên phòng Ba Lạt vì đã cộng tác giúp đỡ lực lượng PCTP & TP của Đồn đấu tranh có hiệu quả với một số vụ án ma túy trên địa bàn. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s,t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Về nguồn gốc số Heroine thu giữ của Nguyễn Văn H cất giấu để sử dụng cho bản thân. H khai mua của một người thanh niên không biết tên,tuổi,địa chỉ qua khe cửa sắt khép kín của một nhà ở gần nhà thời Phú Thọ thuộc xóm 18 xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy. Quá trình điều tra không xác định được người đã bán ma túy cho Hnên Cơ quan cảnh sát điều tra đã tách ra để điều tra xử lý sau là phù hợp.

 [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s,t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 11/6/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HS-ST ngày 25/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về