Bản án 53/2018/HS–ST ngày 28/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 53/2018/HS–ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 3 năm 2018 tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2018/TLST - HS ngày 02 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Đức C , sinh ngày 26/12/1978 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: tổ 5, khu 3, thị trấn T , huyện HB , tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: tổ 7, khu 1, thị trấn T , huyện HB , tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên bố: Vũ Đức H, sinh năm 1948; Họ và tên mẹ: Trần Thị P, sinh năm 1950; Vợ, con: chưa có;

Tiền án: Ngày 27/9/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 19/3/2012 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương; Ngày 29/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện HB xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 19/1/2016 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương.

Bị bắt ngày 22/12/2017, hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Hoàng Văn M , sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ 2, khu 4, thị trấn T , huyện HB , tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Đại diện nguyên đơn dân sự: anh Phạm Hoài B , sinh năm 1972. Địa chỉ: Tổ 14, khu 2, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Hùng V , sinh năm 1977. Địa chỉ: Tổ 7, khu 3B, phường Giếng Đáy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

+ Anh Trần Văn H , sinh năm 1976. Địa chỉ: Tổ 1, khu 3, thị trấn T, huyện HB , tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

+ Chị Đinh Thị T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Tổ 2, khu VY , phường VH , thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 19/11/2017, Hoàng Văn M mượn xe mô tô biển kiểm soát 34M1 - 0818 của anh Trần Văn H , chở Vũ Đức C đi đến khu vực để vật liệu xây dựng của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trường Sơn - Quảng Ninh ở tổ 26, khu 3, phường HK , thành phố Hạ Long, đang thi công công trình nâng cấp cải tạo đường rãnh thoát nước phường HK . Khi phát hiện tại đây có nhiều tấm đan bằng sắt xây dựng có kích thước khoảng 60x80cm không có người trông coi, Cường đã rủ M vào trộm cắp mang bán lấy tiền ăn tiêu. M đồng ý và đỗ xe cách đó khoảng 10m để cảnh giới, còn Cường vào trong bê 04 tấm đan bằng sắt xây dựng mang ra để lên yên xe. Sau đó, M điều khiển xe mô tô chở Cường mang 04 tấm đan trộm cắp được đi bán thì bị các anh Phạm Hoài B , Phạm Hùng V là công nhân của Công ty Trường Sơn phát hiện và đi xe ô tô đuổi theo. Đến điểm thu mua phế liệu ở tổ 2, khu VY , phường VH , thành phố Hạ Long, Cường tháo rời 04 tấm đan thành 45 thanh sắt hình trụ tròn Ø 10, dài 80cm; 60 thanh sắt hình trụ tròn xoắn 14, dài 80cm; 45 khung sắt phi 8 chiều dài 1m, rộng 0,1m và 15 khung sắt phi 8 hình chữ nhật chiều dài 0,8m, rộng 0,1m bán cho chị Đinh Thị T được số tiền 400.000đồng. Trên đường về M và Cường phát hiện có ô tô đuổi theo sau nên đã tăng ga bỏ chạy nhưng đến đoạn đường rẽ vào nghĩa trang thị trấn T , huyện HB thì bị ngã xe. M vứt xe lại chạy thoát, còn Cường bị anh B và anh V bắt giữ, bàn giao cho Công an thành phố Hạ Long giải quyết. Cùng ngày, công an đã tạm giữ toàn bộ số sắt xây dựng do Cường và M trộm cắp, tạm giữ của Cường 400.000đồng cùng xe mô tô biển kiểm soát 34M1-0818.

Bản kết luận định giá tài sản số 183/KLĐG ngày 11/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: Tổng trị giá số sắt xây dựng nêu trên là 1.745.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT – VKS ngày 01/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo Vũ Đức C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự. Thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề xuất: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Vũ Đức C từ 12

(Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt; Vật chứng và trách nhiệm dân sự đã được xử lý trong quá trình điều tra, tài sản cũng được cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là hợp pháp, nên không đề cập xem xét.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người đúng tội, không oan sai nên không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo cũng không có kiến nghị, khiếu nại về hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội: Vào khoảng 08 giờ ngày 19/11/2017, tại tổ 26, khu 3, phường HK , thành phố Hạ Long, Vũ Đức C và Hoàng Văn M có hành vi trộm cắp 45 thanh sắt hình trụ tròn phi 10, dài 80cm; 60 thanh sắt hình trụ tròn xoắn phi 14, dài 80cm; 45 khung sắt phi 8 chiều dài 01m, rộng 0,2m và 15 khung sắt phi 8 hình chữ nhật chiều dài 0,8m, rộng 0,2m, có tổng trị giá 1.745.000đồng của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trường Sơn - Quảng Ninh, mang bán cho bà Đinh Thị T lấy 400.000đồng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, anh Hoàng Văn M có lời khai: Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 19/11/2017 tôi ngồi uống nước với bạn là anh Cường thì được anh Cường rủ đến nhà người quen ở tập thể nhà máy gạch chơi. Tôi đồng ý nên lấy xe máy biển kiểm soát 34M1- 0818 chở Cường đi. Khi đi ngang qua khu vực dự án thuộc tổ 26, khu 3, phường HK thì Cường đập vào vai tôi nói “ anh đỗ xe lại để em vào kia lấy mấy tấm sắt mang bán sắt vụn lấy tiền tiêu”. Tôi điều khiển xe đi vào đường bê tông của dự án, còn Cường vào bê ra 04 tấm đan làm 2 chuyến. Tôi ngồi ở ngoài quan sát, nếu có người đến thì báo với Cường để bỏ đi. Sau đó Cường nhờ tôi chở về khu VH để bán sắt. Khoảng 09 giờ sáng cùng ngày hôm đó chúng tôi đến điểm thu mua vật liệu ở khu VY , phường VH , thành phố Hạ Long, tôi ở ngoài đợi còn Cường vào trong bán. Sau đó Cường nhờ tôi chở về thị trấn T. Số sắt đã lấy trộm, Cường không nói bán được bao nhiêu tiền. Khi đến khu vực nghĩa địa T thì Cường nói có xe đuổi theo nên tôi tăng ga bỏ chạy. Tôi bị ngã xe nên đã để xe lại bỏ chạy thoát. Sự việc sau đó thì tôi không được rõ. 

Nguyên đơn dân sự, công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trường Sơn, Quảng Ninh, đại diện là anh Phạm Hoài B có lời khai: Khoảng 09 giờ sáng ngày 19/11/2017 anh nhận được tin báo của quần chúng nhân dân báo có người lấy trộm sắt để thi công công trình của Công ty Trường Sơn tại khu vực tổ 24, khu 3, phường HK , thành phố Hạ Long, nơi anh đang trông coi quản lý. Khi đó anh và anh V đang ngồi cạnh đường gần ngõ 26 thì nhìn thấy hai thanh niên đi trên một xe máy màu đỏ đen có chở một số tấm khung sắt buộc để đổ tấm đan. Đoán là sắt của công trường do mình quản lý nên anh và anh V đã dùng xe ô tô đuổi theo. Đến một điểm thu mua phế liệu tại khu VY , phường VH anh thấy hai thanh niên lúc trước đi xe máy từ trong ra, anh cùng anh V đuổi theo và giữ được một nam thanh niên. Anh tới trình báo Công an phường VH đến điểm thu mua phế liệu và xác định được số sắt hai thanh niên vừa bán là của công trường công ty anh đang thi công. Sau đó anh và anh V đưa đối tượng về Công an phường HK . Tại đây đối tượng khai tên là Vũ Đức C sinh năm 1978 thường trú tại thị trấn T , huyện HB , tỉnh Quảng Ninh.

Người làm chứng là anh Phạm Hùng V khai: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19/11/2017 anh nhìn thấy có 02 nam thanh niên đi xe máy đi ngược từ công trường ra, trên xe có chở một số tấm sắt đan. Đoán là đối tượng trộm cắp sắt của công trường, anh và anh B đi xe ô tô đuổi theo. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu VY , phường VH , thành phố hạ Long, các anh thấy 02 đối tượng đi ra từ một điểm thu mua phế liệu, không còn chở theo các tấm sắt nữa. Hai anh tiếp tục đuổi theo một đoạn thì hai nam thanh niên bị ngã xe. Một người bỏ lại xe máy chạy được, còn một người bị anh và anh B cùng quần chúng nhân dân giữ lại.

Chị Đinh Thị T khai: vào khoảng 09 giờ sáng ngày 19/11/2017 có hai nam thanh niên đi xe máy chở sắt đến điểm thu mua phế liệu của gia đình chị. Một người ngồi ngoài xe đợi còn một người vào đề nghị bán cho chị 4 tấm sắt đan. Chị Thống đồng ý, tiến hành cân số sắt được 33 kg và trả cho nam thanh niên 400.000đồng. Nam thanh niên nhận tiền rồi đi đâu chị Thống không rõ. Khi có cơ quan công an đến làm việc, chị Thống mới biết số sắt đó là tài sản trộm cắp mà có.

Người làm chứng là anh Phạm Hùng V , anh Trần Văn H , chị Đinh Thị T có lời khai cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án (Bút lục 50 đến 61).

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn thống nhất với lời khai trong giá trình điều tra ( Bút lục 73 đến 80) về hành vi, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội; Phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác; Phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Bản kết luận định giá tài sản số 183/KLĐG ngày 11/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: Tổng trị giá số sắt xây dựng nêu trên là 1.745.000đồng. Số tiền tuy không lớn, chưa đạt mức tối thiểu để định khung hình phạt, nhưng do bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích về cùng một loại tội nên lần này bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” đối với trường hợp đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, đúng người đúng tội.

Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,169,170,171,172,174,175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, tổ chức, vi phạm pháp luật hình sự. Bị cáo đã có hai tiền án, đã từng bị xét xử về tội “ Trộm cắp tài sản”, phải chịu sự trừng phạt của pháp luật hình sự nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa bản thân mà tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo là một người có nhân thân xấu, khó cải tạo. Vì lẽ đó, việc xử lý nghiêm khắc bị cáo trước pháp luật là cần thiết, có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có hai tiền án, cụ thể: Ngày 27/9/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 19/3/2012 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương; Ngày 29/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện HB xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 19/1/2016 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương. Bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích, do vậy, đối với tiền án năm 2014 áp dụng là tình tiết định khung áp dụng đối với bị cáo; đối với tiền án năm 2006 bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, nên khi quyết định hình phạt có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt, áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Nhưng nhất thiết buộc bị cáo phải cải tạo, cách ly xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành con người có ích cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hiện nay.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án báo gồm:

- 45 thanh sắt hình trụ tròn phi 10, dài 80cm; 60 thanh sắt hình trụ tròn xoắn phi 14, dài 80cm; 45 khung sắt phi 8 chiều dài 01m, rộng 0,2m và 15 khung sắt phi 8 hình chữ nhật chiều dài 0,8m, rộng 0,2m. Cơ quan điều tra đã trả lại cho nguyên đơn dân sự.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, BKS 34M1 0818, màu sơn đỏ- đen. Số máy HC 09E6330355, số khung: 09016Y330818. Chiếc xe là tài sản của ông Trần Văn H , cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Trần Văn H .

- Số tiền 400.000đồng thu của Vũ Đức C là tiền bán sắt cho chị Đinh Thị T mà có, chị Đinh Thị T không biết số sắt do Cường phạm tội mà có, cơ quan điều tra đã trả lại 400.000đồng cho chị Thống.

Toàn bộ số vật chứng của vụ án đã trả lại cho chủ sở hữu là hợp pháp nên Tòa án không xét.

Về trách nhiệm dân sự: anh Phạm Hoài B là người được công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trường Sơn ủy quyền không yêu cầu về bồi thường thiệt hại nên không đề cập giải quyết. Chị Đinh Thị T đã nhận lại 400.000đồng và không có yêu cầu gì khác nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với Hoàng Văn M chưa có tiền án tiền sự nên hành vi không cấu thành tội phạm, Công an thành phố Hạ Long đã xử phạt hành chính nên Tòa án không xét.

Đối với chị Đinh Thị T có hành vi mua lại số sắt của Vũ Đức C nhưng không biết đó là tài sản do Cường phạm tội mà có nên không cấu thành tội phạm.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận thấy Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long và Kiểm sát viênViện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền, lợi ích của bị cáo được tôn trọng và đảm bảo nên bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo. Tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Điều đó cho thấy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đức C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015; Điểm s Khoản 1, Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Đức C 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/12/2017.

- Áp dụng: Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 333, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Nguyên đơn dân sự vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HS–ST ngày 28/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2018/HS–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về