TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 53/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 09 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 214/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018, về: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 25/10/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1994 (Có mặt)
2. Bị đơn: Anh Hồ Minh C, sinh năm: 1987 (Có mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn Hiệp Thuận, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn, nuôi con, bản tự khai và lời khai tại Tòa án nhân dân thị xã L, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:
Chị H và anh Hồ Minh C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, đến năm 2012 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T theo Giấy chứng nhận kết hôn số 13, quyển số 01, ngày 07/03/2012.
Quá trình chung sống, chị và anh C hạnh phúc được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống như quan điểm, kinh tế gia đình, cách nuôi dạy con… Do tính chất công việc của chị H phải làm theo ca, thường xuyên vè khuya nên anh C ghen tuông, đánh đập chị. Mâu thuẫn vợ chồng chị xảy ra liên tục, không hòa giải được. Anh C nhiều lần đe dọa đánh đập chị nên chị lo sợ và dẫn con đi nơi khác sinh sống. Giữa chị và anh C không còn liên lạc. Hiện nay, tình cảm của chị đối với anh C không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên chị làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã L giải quyết cho chị ly hôn với anh Hồ Minh C.
Về con chung: Chị và anh Hồ Minh C có 02 con chung: Hồ Thị Hồng V, sinh năm 19/11/2011 và Hồ Gia B, sinh năm 15/6/2013. Hiện các cháu đang sống cùng mẹ. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn giữa nguyên yêu cầu, yêu cầu được ly hôn với anh Hồ Minh C. Về con chung chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu Hồ Thị Minh Hồng V và Hồ Gia B, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Bị đơn anh Hồ Minh C trình bày: Anh thừa nhận mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Nguyễn Thị H về thời gian đăng ký kết hôn, cũng như con chung của vợ chồng. Anh thừa nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn trầm trọng và đã không thể hòa giải, hàn gắn được nữa. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp nhau, chị H thường xuyên đi khuya, không quan tâm đến gia đình, ngoại tình… nên giữa vợ chồng anh chị không tìm được tiếng nói chung, không tôn trọng lẫn nhau, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã. Mặc dù anh rất muốn hòa giải hàn gắn nhưng không liên hệ được với chị H, tuy nhiên tình cảm đối với chị H vẫn còn nên chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa hôm anh anh C nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, vì vậy anh đồng ý ly hôn chị Hồng.
Về con chung: Vợ chồng anh và chị Nguyễn Thị H có 02 con chung là cháu Hồ Thị Hồng V, sinh ngày: 19/11/2011 và Hồ Gia B, sinh ngày 15/6/2013. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu B và cháu V, không yêu cầu chị Hồng cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Về tố tụng : Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Hội đồng xét xử và Thẩm phán tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng là đúng pháp luật.
Về nội dung:
- Về hôn nhân: Đề nghị HĐXX công nhận thuận tình ly hôn của anh Hồ Minh C và chị Nguyễn Thị H.
- Về con chung: Giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Thị Hồng V, sinh năm 19/11/2011. Giao cho anh Hồ Minh C được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Gia B, sinh ngày 15/6/2013.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; qua kết qỉa tranh tụng và lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con với anh Hồ Minh C. Bị đơn có nơi cư trú tại thôn Hiệp Thuận, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Do đó, Tòa án nhân dân thị xã La Gi thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Hồ Minh C có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân H theo Giấy chứng nhận kết hôn số 13, quyển số 01, ngày 07/03/2012, vì vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Sau khi kết hôn, giữa chị H và anh C có thời gian chung sống hạnh phúc. Anh C và chị H đều thừa nhận mâu thuẫn giữa anh chị là có thật, nguyên nhân là do anh chị bất đồng quan điểm sống, tài chính gia đình…, giữa vợ chồng không có sự cảm thông, chia sẻ cùng nhau dẫn đến thường xuyên cãi vả, gây gổ, đánh đập nhau. Cả chị H và anh C đều xác định mâu thuẫn giữa anh chị đã không thể hòa giải hàn gắn được nữa. Hiện, anh chị đã không còn sống chung, mạnh ai nấy sống. Bản thân anh C cũng thừa nhận, anh có cố gắng liên hệ, hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị H không đồng ý và đã cắt liên lạc. Tại phiên tòa hôm nay, anh C nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đồng ý ly hôn chị H. Vì vậy, HĐXX công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Hồ Minh C.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Hồ Minh C đều có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, Hội đồng xét xử nhận thấy, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét đến việc đảm bảo quyền lợi cho con về mọi mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 “…trường hợp không thỏa thuận được Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyên vọng của của con”. Xét thấy, chị H và anh C đều là lao động có thu nhập, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung. Chị H và anh C có 02 con chung, trong đó 01 cháu nam và 01 cháu nữ, qua xem xét nguyện vọng của con chung trẻ 7 tuổi, cháu V mong muốn được ở với mẹ. Do vậy, Hội đồng xét xử giao cho chị H, anh C mỗi người được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể; Giao cho chị Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Thị Hồng V, sinh ngày: 19/11/2011. Giao cho anh Hồ Minh C được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Gia B, sinh ngày 15/6/2013.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92; Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 51, 53, 54, 55 khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Hồ Minh C.
2. Về con chung:
Giao cho chị Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Thị Hồng V, sinh ngày: 19/11/2011.
Giao cho anh Hồ Minh C được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Hồ Gia B, sinh ngày 15/6/2013
Chị H và anh C được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được phép cản trở.
3. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai số 0021863 ngày 25/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi. Chị Nguyễn Thị H đã nộp đủ tiền án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn và bị đơn, báo cho các bên biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.
Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 53/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về