Bản án 526/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TP. H

BẢN ÁN 526/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 06 năm 2019 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý 1325/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 05 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 121/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 05 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K T, sinh năm 1989

Địa chỉ: Nhà số D14/22D ấp 4, xã T K, huyện B, Thành phố H

Bị đơn: Ông Nguyễn T P, sinh năm 1986

Địa chỉ: Nhà số A15/4 ấp 1, xã T K, huyện B, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11 tháng 10 năm 2018, những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trinh trình bày:

Bà và ông P tự nguyện tìm hiểu và chung sống vợ chồng vào năm 2010, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2010 của Ủy ban nhân dân xã T K, huyện B cấp ngày 26 tháng 04 năm 2010.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc sau đó đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn theo bà T là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống chung bên cạnh đó ông P cờ bạc, gây nợ nần, thường xuyên đe dọa đòi giết bà và gia đình bà, hủy hoại tài sản của gia đình bà. Mâu thuẫn dẫn đến việc cả hai đã sống ly thân từ tháng 02/2015 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông P.

- Về con chung: Có một con chung tên tên Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010

Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Trí và không yêu cầu ông P phải cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản chung: Bà T xác nhận hai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà T xác nhận không có và không yêu cầu Toà án giải quyết. Đối với bị đơn ông P trong quá trình giải quyết vụ án:

Qua xác minh địa phương Công an xã T K, huyện B: Ông Nguyễn T P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ A15/4 ấp 1, xã T K, huyện B, Thành phố H, nhưng thường xuyên vắng mặt tại địa phương.Qua xác minh bà T và ông P chung sống có cãi qua cãi lại không có đánh, xô sát với lý do đi làm hay nhậu không đem tiền về nhà hiện nay hai người đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay.

Khi bà T gửi đơn ly hôn, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý và các giấy triệu tập ông P đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng nói trên cho ông P nhưng ông P vẫn vắng mặt không rõ lý do và không có ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như hòa giải theo quy định pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông P theo quy định tại Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B,Thành phố H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại khoản 16 Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 267 BLTTDS; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Chấp nhận yêu cầu ly hôn theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị K T. Giao trẻ Nguyễn T T, cho bà Nguyễn Thị K T trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Thanh Phương Về án phí: Bà Nguyễn Thị K T chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị K T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn T P. Đây là tranh chấp về ly hôn, là loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Bị đơn cư trú tại địa bàn huyện Bình Chánh nên theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh có thẩm quyền giải quyết.

Đi với bị đơn ông Nguyễn T P: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ kiện và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt ông Nguyễn Th P theo quy định tại Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của nguyên đơn: Do nguyên đơn bà Nguyễn Thị K T cũng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Về yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2010 của Ủy ban nhân dân xã T K, huyện B cấp ngày 26 tháng 04 năm 2010 thì hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Kiều Trinh và ông Nguyễn T P là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Quá trình vợ chồng chung sống không được hòa thuận theo bà T do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống chung bên cạnh đó ông P cờ bạc, gây nợ nần, thường xuyên đe dọa đòi giết bà và gia đình bà, hủy hoại tài sản của gia đình bà. Bà và ông P đã đã sống ly thân từ tháng 02/2015 cho đến nay. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn với ông P.

Xét tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông P đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc bà T xin ly hôn ông Phương là có căn cứ phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận.

[2] Về con chung: Bà T và ông P có một con chung tên Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ T đến trưởng thành và không yêu cầu ông P cấp dưỡng muôi con.

Khon 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Trẻ Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010 hiện tại đang sống cùng mẹ là bà T có nguyện vọng được sống với mẹ là bà T sau khi cha mẹ ly hôn.

Hi đồng xét xử xét thấy bà T có công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi con. Ông P vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến về việc giải quyết việc nuôi con chung cũng như cấp dưỡng nuôi con Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy giao trẻ Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010 cho bà T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh hiện tại và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho trẻ.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày hai vợ chồng không có tài sản chung và cũng không nợ chung ai, cũng như ông P vắng mặt không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

3. Về án phí: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14, bà Trinh phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27; điểm đ khoản 6 Điều 27; tiểu mục 1.1 Mục 1 Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn T K T đối với ông Nguyễn T P. Bà Nguyễn Thị K T được ly hôn với ông Nguyễn T P.

Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2010 của Ủy ban nhân dân xã T K, huyện B cấp ngày 26 tháng 04 năm 2010 không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung: Bà T và ông P có một con chung tên Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010 2.1. Chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà Nguyễn Thị K T.

Giao con chung Nguyễn T T, sinh ngày 29 tháng 03 năm 2010 cho bà Nguyễn Thị K T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành.

Ông P được quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp ông P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con là bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông P theo qui định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc cá nhân tổ chức Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo qui định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2.2. Ghi nhận bà T không yêu cầu ông P phải cấp dưỡng nuôi con. Do bà T không yêu cầu ông P phải cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông P.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị K T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0006142 ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B; bà T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà T, ông P vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 526/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:526/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về