Bản án 523/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 523/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 262/2018/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 72/2018/QĐST- HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Dương Nguyễn Bá M, sinh năm: 1967; địa chỉ: đường DC,Phường MM, Quận XI, Thành phố H (Có đơn xin xét xử vắng mặt);

2. Bị đơn: Bà Trang Thị C, sinh năm: 1973; địa chỉ: đường DC, Phường M, Quận XI, Thành phố H; địa chỉ liên lạc: đường 3/2, Phường ML, Quận XI, Thành phố H. (Vắng mặt tại phiên tòa);

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 04/5/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – ông Dương Nguyễn Bá M trình bày:

Ông và bà Trang Thị C tự tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, vợ chồng chung sống có đăng ký kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 13 do Ủy ban nhân dân Phường 11, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 23/02/2005).

Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn về mặt kinh tế gia đình. Bà C không lo làm ăn, ham chơi, tiền bạc không tiết kiệm dẫn đến nợ nần. Hoàn cảnh kinh tế ông M cũng khó khăn không đáp ứng được những nhu cầu của bà C nên bà C đã bỏ nhà ra đi theo người khác. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay hơn 6 năm. Nay ông M được biết bà C đã sống với người khác tại Phường 15, Quận 11. Ông M nhận thấy tình cảm vợ chồng thật sự không còn nên ông yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bà Trang Thị C.

Về con chung: Có 01 con chung Dương Gia Linh (nữ), sinh ngày 03/4/2005. Bà C đã bỏ nhà đi hơn 6 năm, ông M là người trực tiếp nuôi con nên ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án nhân dân Quận 11 đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn nhưng phía bị đơn đã không đến Tòa án để giải quyết. Do đó, Tòa án không thể tiến hành ghi nhận ý kiến đối với phía bị đơn được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:

- Về Thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với bị đơn bà Trang Thị C hiện cư trú tại Quận 11 nên quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là “tranh chấp về ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11 theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự:

Ông Dương Nguyễn Bá M có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 05/9/2018. Phiên tòa xét xử vụ án được mở vào lúc 8 giờ ngày 05/9/2018 và 14 giờ 00 ngày 24/9/2018, bà Trang Thị C đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xétxử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tạiĐiểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [3] Về quan hệ hôn nhân:

Việc kết hôn giữa ông Dương Nguyễn Bá M và bà Trang Thị C trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 11, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn về mặt kinh tế gia đình. Bà C không lo làm ăn, ham chơi, tiền bạc không tiết kiệm dẫn đến nợ nần. Hoàn cảnh kinh tế ông M cũng khó khăn không đáp ứng được những nhu cầu của bà C nên bà C đã bỏ nhà ra đi theo người khác. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay hơn 6 năm. Nay ông M được biết bà C đã sống với người khác tại Phường 15, Quận 11. Ông M nhận thấy tình cảm vợ chồng thật sự không còn nên ông yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bà Trang Thị C.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân Gia đình: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên cuộc sống giữa ông M và bà C không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho bà C đến Tòa án để giải quyết tranh chấp ly hôn nhưng bà C cố tình vắng mặt và cũng không có ý kiến phản hồi những vấn đề ông M yêu cầu đã được ghi trong thông báo thụ lý vụ án, chứng tỏ bà C không quan tâm cũng không thiết tha đoàn tụ gia đình. Việc ông M yêu cầu ly hôn với bà C là chính đáng; do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn với bà C của ông M.

 [4] Về con chung: có 01 con chung Dương Gia Linh (nữ), sinh ngày03/4/2005. Hội đồng xét xử xét thấy trẻ Linh hiện đang ở chung với ông M và có nguyện vọng ở cùng với ông M, do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi 03 con chung của ông M. Ghi nhận sự tự nguyện của ông M, không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.

 [5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về án phí:

Ông Dương Nguyễn Bá M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

 [7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Nguyễn Bá M.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Dương Nguyễn Bá M được ly hôn với bà Trang Thị C.

Về con chung: Giao trẻ Dương Gia Linh (nữ), sinh ngày 03/4/2005 cho ông Dương Nguyễn Bá M trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông M không yêu cầu bà Trang Thị C cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trang Thị C được quyền thăm nom con, không ai được cản trở bà C thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí:

Ông Dương Nguyễn Bá M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0008699 ngày 11/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sựQuận 11, Thành  phố Hồ Chí Minh. Ông M đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 523/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:523/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về