Bản án 52/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 52/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, Tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2020/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2020/HSST-QĐ ngày 16 tháng 3 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2020/HSST-QĐ ngày 08 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Tô Văn H; Sinh ngày: 04/6/2002.

Nơi cư trú: Thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Tô Bá Hiếu, sinh năm 1954 và bà: Hoàng Thị Lý, sinh năm 1968; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa.

Tin án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/9/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

2. Họ và tên: Đới Văn K; Sinh ngày: 30/6/2003.

Nơi cư trú: Thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đới Văn Khuyến, sinh năm 1972 và bà: Lê Thị Hoàn, sinh năm 1976; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 03. Vợ, con: Chưa.

Tin án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 17/9/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hậu Lộc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp tạm giam đối với Đới Văn K; về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 08/9/2019 tại thôn Minh Thịnh, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án trên tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

3. Họ và tên: Đinh Văn T; Sinh 20/12/1996;

Nơi cư trú: Thôn P, xã M, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đinh Văn Chủng, sinh năm 1965 và bà: Hoàng Thị K, sinh năm 1967; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa;

Tin án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 08/10/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hậu Lộc khởi tố bị can và áp dụng biện pháp tạm giam đối với Đinh Văn T; về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 08/9/2019 tại thôn Minh Thịnh, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án trên tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

4. Họ và tên: Trình Chung T; Sinh ngày: 27/02/2002.

Nơi cư trú: Thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1972 và bà: Trình Thị Thủy, sinh năm 1974; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa.

Tin án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/10/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

5. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Sinh ngày: 04/10/2001.

Nơi cư trú: Thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn Nhung, sinh năm 1973và bà: Nguyễn Thị Lan, sinh năm 1978; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa.

Tin án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/10/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

6. Họ và tên: Mai Văn T3; Sinh ngày: 05/01/2002.

Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Mai Văn Hiếu (Đã chết) và bà: Phạm Thị Chung, sinh năm 1981; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa.

Tin án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/10/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

* Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Người bào chữa cho bị cáo Trình Chung T và Tô Văn H: Bà Lê Thu Hằng - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

2. Người bào chữa cho bị cáo Mai Văn T3 và Đới Văn K: Bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

3. Luật sư bào chữa cho bị cáo Đinh Văn T: Ông Hoàng Ngọc Nga - Công ty Luật TNHH MYV 36 và cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

4. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Bà Lê Thị Hoa - Văn phòng Luật sư Việt Hoa.

Đa chỉ: 09/91 Nguyên Hồng, phường Tân Sơn, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

* Người bị hại: Anh Hồ Đức Anh, sinh 08/11/2002 (Có mặt).

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Trịnh Thị Hiền (Là mẹ đẻ của bị hại).

Đu trú tại: Xóm 8 xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

* Những người làm chứng: (Đều vắng mặt tại phiên tòa)

1. Anh Nguyễn Văn Hưng (SN 2003).

Trú tại: Thôn Hòa Bình, xã Thịnh Lộc, huyện Hậu Lộc, T.Thanh Hóa.

2. Anh Mai Tiến Dũng (SN 2000).

Trú tại: Thôn Hòa Bình, xã Thịnh Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22h ngày 16/8/2019, Đới Văn K, sinh ngày 20/6/2003, trú tại Thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 04/10/2001, trú tại thôn M, xã M, huyện Hậu Lộc cùng nhau đến quán Karaoke - cafe Trẻ thuộc tiểu khu 1, thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc dự sinh nhật của Nguyễn Văn Chiến, sinh năm 2000, trú tại thôn Yên Nội, xã Thịnh Lộc, huyện Hậu Lộc. Khi vào trong phòng hát, K gặp Trình Chung T, sinh ngày 27/02/2002, trú tại thôn Minh Thịnh, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc (là bạn của K và Đ), đang hát karaoke cùng Mai Tiến Dũng, sinh năm 2000, trú tại thôn Lương Quán, xã Hoằng Lương, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và một số người khác. Do K đang có mâu thuẫn với bạn thân của Dũng là anh Hồ Đức Anh, sinh ngày 08/11/2002, trú tại xóm 8, xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, nên kết thúc buổi sinh nhật, K đã yêu cầu Dũng gọi anh Đức Anh đến để giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, Dũng không gọi được Đức Anh đến nên nhóm K, Đ và T2 xảy ra cãi nhau, lời qua tiếng lại với Dũng. Sau đó, K hẹn Dũng ra khu vực trước cổng nhà máy may Ivory thuộc địa phận thị trấn Hậu Lộc để nói chuyện thì Dũng đồng ý. Tại đây, vì bực tức việc T2 chửi Dũng ở quán cafe Trẻ nên Dũng đã tát Trình Chung T một cái vào mặt, đồng thời cầm 01 viên gạch định đánh T2 nhưng được mọi người can ngăn nên hai bên không xảy ra xô xát. Sau đó, Dũng quay về quán cafe Trẻ để tiếp tục hát karaoke cùng với nhóm bạn của mình.

Sau khi Dũng bỏ đi, K lấy điện thoại gọi qua mạng xã hội Facebook cho Đinh Văn T, sinh năm 1996, trú tại thôn Phú Thành, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc và Tô Văn H, sinh ngày 04/6/2002, trú tại thôn Minh Thành, xã Minh Lộc, huyện Hậu Lộc thông báo việc T2 vừa bị nhóm Đức Anh đánh và nhờ T đón H cùng lên thị trấn Hậu Lộc để giúp cả bọn tìm nhóm Đức Anh đánh trả thù thì cả hai đồng ý (H cũng đang có mâu thuẫn từ trước với anh Hồ Đức Anh). Sau đó, T đi xe máy đến quán Internet ở xã Minh Lộc đón Tô Văn H và Mai Văn T3, sinh ngày 05/01/2002, trú tại thôn Tân Lộc, xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc rồi để H điều khiển xe máy chở T và T3 đi lên thị trấn Hậu Lộc. Khi đi đến đoạn cầu Do Hạ (hay còn gọi là cầu Nước Xanh) thuộc địa phận thị trấn Hậu Lộc thì gặp nhóm K, T2 và Đ đang đi xe máy theo chiều ngược lại. Tại đây, cả bọn dừng lại nói chuyện với nhau và thống nhất cùng đi đến quán cafe Trẻ tìm nhóm Đức Anh để đánh trả thù. Trước khi đi, H nói chuyện với K, biết K mang theo 01 con dao nhọn nên H hỏi mượn dao để sử dụng lúc đánh nhau nhưng K không đồng ý.

Khi đến quán cafe Trẻ, nhóm K xông vào phòng hát tìm nhóm Đức Anh để đánh nhưng chủ quán không cho vào nên cả nhóm đứng chờ ở cổng. Lúc này, K đi một mình vào bên trong quán thì gặp Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 2003, trú tại thôn Hòa Bình, xã Thịnh Lộc, huyện Hậu Lộc. Biết Hưng là bạn của anh Đức Anh nên K nhờ Hưng gọi anh Đức Anh đến để nói chuyện thì Hưng đồng ý và bảo K ra khu vực ngã tư thị trấn Hậu Lộc chờ Hưng gọi điện thoại cho anh Đức Anh. Sau đó, nhóm của K đi đến khu vực ngã tư thị trấn, trên đường đi K biết H muốn mượn dao nên đã chủ động đưa cho H một con dao bấm bằng kim loại dài khoảng 15cm, có một lưỡi sắc nhọn để H sử dụng khi xảy ra đánh nhau. Do anh Hưng không biết nhóm K đang tìm đánh anh Đức Anh, nên Hưng đã gọi điện thoại hẹn gặp Đức Anh thì anh Đức Anh đồng ý. Khoảng 5 phút sau, anh Đức Anh cùng 03 người bạn đi một xe máy đến khu vực ngã tư thị trấn và dừng ở rìa đường đối diện cửa hàng điện thoại Quy Dự. Thấy vậy, Đinh Văn T nghĩ rằng đây là nhóm của Đức Anh nên T đi xe máy một mình đến chặn đầu xe và hỏi: “Thằng nào là thằng Đức Anh?” thì không ai trả lời. Lúc này, K đi bộ sang và nói: “Thằng ngồi thứ ba, xăm hai tay đấy anh” thì T nhảy xuống xe xông vào đấm, đá Đức Anh bằng tay chân, đồng thời cầm áo trên tay vụt vào người anh Đức Anh làm anh Đức Anh nhảy xuống xe bỏ chạy. Thấy vậy, 05 đối tượng gồm: K, H, T2, Đ và T3 cùng nhau chạy đến vây xung quanh dùng tay, chân đánh anh Đức Anh khiến Đức Anh phải cúi người, dùng hai tay ôm đầu để chống đỡ. Lúc này, tay phải Tô Văn H cầm con dao bấm mà K đưa trước đó, bấm lưỡi dao bật ra ở tư thế lưỡi dao hướng xuống dưới, rồi vung dao đâm 01 nhát theo chiều từ trên xuống dưới trúng vào phần gáy cổ của anh Đức Anh. Đinh Văn T đứng ngay phía sau H thấy H vừa đâm Đức Anh liền kéo H đứng sang một bên rồi tiếp tục xông vào cùng các đối tượng còn lại dùng tay, chân đánh anh Đức Anh. Tô Văn H thấy cả nhóm vây đánh anh Đức Anh thì tiếp tục xông vào cầm dao theo tư thế cũ, vung dao đâm nhiều nhát trúng vào người anh Đức Anh. Bị đâm, anh Đức Anh nằm gục xuống đường, thấy Đức Anh chảy nhiều máu, các đối tượng lấy xe máy rời khỏi hiện trường. Khi về đến xã Minh Lộc, Tô Văn H thừa nhận với cả bọn về việc trong lúc xô xát, H đã dùng dao đâm anh Đức Anh. Anh Hồ Đức Anh được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Hậu Lộc và Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa.

Sau khi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hậu Lộc đã tiến hành điều tra truy xét, thu thập tài liệu chứng cứ làm rõ các đối tượng gây án; Ngày 10/10/2019 chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa để điều tra theo thẩm quyền. Quá trình điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

 * Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện:

Hiện trường vụ án được xác định là tại trước cửa hàng điện thoại di động Quy Dự thuộc khu 5, thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

- Vị trí số 1: Là vị trí các đối tượng đứng chờ và quan sát anh Hồ Đức Anh. Đây là vị trí nằm trên vỉa hè phía Tây Nam thuộc trục đường đi về xã Xuân Lộc. Vị trí này được lát gạch đá bằng phẳng có tầm nhìn tốt, không có chướng ngại vật che khuất.

- Vị trí số 2: Là vị trí anh Hồ Đức Anh bị đánh. Đây là vị trí trước cửa hành điện thoại di động Quy Dự, thuộc trục đường đi về Cầu Nước Xanh. Vị trí này nằm trên trục đường rải nhựa bằng phẳng. Vị trí (2) các vị trí (1) là 22m20.

- Vị trí số 3: Là vị trí anh Hồ Đức Anh ngã xuống mặt đường. Đây cũng là vị trí nằm trên trục đường đi về Cầu Nước Xanh, trước cửa hàng điện thoại di động Quy Dự. Vị trí số (3) cách vị trí số (2) là 2m50.

* Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể bị hại Hồ Đức Anh hồi 15 giờ 20 phút ngày 17/8/2019 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa01 vết thương vùng sau gáy kích thước (2 x 1) cm. 01 vết vùng thắt lưng bên phải kích thước (1 x 1) cm và 01 vết vết thương hạ sườn phải kích thước (2 x 1) cm.

* Tóm tắt Bệnh án đối với Hồ Đức Anh tại tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa: Chấn thương cột sống cổ: rạn thân đốt C6; Vết thương thấu ngực, tràn máu ngoài màng phổi (P) do bị đâm.

* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 499/2019/TTPY ngày 29/8/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra đối với Hồ Đức Anh theo phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 46%.

* Vật chứng của vụ án:

Theo lời khai của các bị cáo, vật chứng có đặc điểm như sau: 01 con dao, loại dao bấm, màu xám xanh, có cán kim loại khắc hình đầu rồng, dài khoảng 15cm. Theo lời khai của Tô Văn H, sau khi dùng để gây thương tích cho Hồ Đức Anh, khi đi qua cầu Do Hạ (cầu Nước Xanh), Tô Văn H đã vứt con dao xuống sông. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hậu Lộc đã phối hợp chính quyền địa phương tổ chức lực lượng truy tìm nhưng không thấy vật chứng kể trên.

* Tại Kết luận giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích số 760/2019/TTPY ngày 26/12/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa thể hiện:

Các vết thương trên cơ thể anh Hồ Đức Anh đều do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật tày có cạnh, hoặc có cạnh sắc nhọn. Với con dao có đặc điểm như trên, nếu được sử dụng làm vật gây thương tích thì có thể tạo nên các vết thương trên cơ thể anh Hồ Đức Anh như đã ghi nhận tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 15 giờ 20 phút ngày 17/8/2019 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa.

* Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình anh Hồ Đức Anh báo cáo chi phí cấp cứu, điều trị cho anh Hồ Đức Anh hết số tiền: 65.671.000 đồng. Đến nay, gia đình các bị cáo đã hỗ trợ bồi thường dân sự cho người bị hại được như sau:

Gia đình bị cáo Đinh Văn T bồi thường: 20.000.000 VNĐ (Hai mươi triệu đồng). Gia đình bị cáo Mai Văn T3 bồi thường: 20.000.000 VNĐ (Hai mươi triệu đồng). Gia đình bị cáo Tô Văn H bồi thường: 20.000.000 VNĐ (Hai mươi triệu đồng). Gia đình bị cáo Trình Chung T bồi thường: 20.000.000 VNĐ (Hai mươi triệu đồng). Gia đình bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường: 20.000.000 VNĐ (Hai mươi triệu đồng) và gia đình Đới Văn K bồi thường 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Bị hại Hồ Đức Anh và đại diện gia đình yêu cầu gia đình bị cáo Đới Văn K phải bồi thường tiếp là 18.000.000đ (Mười tán triệu đồng) và xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; Đối với việc bồi thường của 05 gia đình các bị cáo: Đinh Văn T, Mai Văn T3, Tô Văn H, Trình Chung T và Nguyễn Văn Đ đã thỏa thuận xong, không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho 05 bị cáo này.

Đi với Nguyễn Văn Hưng, khi được K nhờ gọi Đức Anh để gặp nói chuyện thì Hưng không biết về mâu thuẫn giữa nhóm K với Hồ Đức Anh và không biết nhóm K đang có ý định đi tìm đánh anh Đức Anh. Do vậy, hành vi của Nguyễn Văn Hưng không cấu thành tội phạm.

Đi với Mai Tiến Dũng: Dùng tay tát Trình Chung T tuy không có thương tích gì nhưng đã vi phạm Điểm a Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử lý hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã có công văn đề nghị Ủy ban nhân dân xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Mai Tiến Dũng về hành vi trên.

Tại bản Cáo trạng số: 15/CT-VKS-P2 ngày 20 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Thanh Hóa truy tố các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn T3 về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích nguyên nhân, tính chất, vai trò và hành vi phạm tội của các bị cáo, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b; s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 54; Điều 57; Điều 58 Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 và Điều 102 BLHS. Xử phạt bị cáo Tô Văn H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Xử phạt các bị cáo Trình Chung T; Nguyễn Văn Đ và Mai Văn T3 từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b; s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 54; Điều 57; Điều 58 Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 và Điều 102 BLHS. Xử phạt Đới Văn K từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b; s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 54; Điều 57; Điều 58 và Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Đinh Văn T từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù và trừ thời gian tạm giữ, tạm giam cho các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, cần công nhận sự thỏa thuận của gia đình người bị hại và gia đình các bị cáo.

* Các Luật sư và Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn T3 có quan điểm:

Hoàn toàn nhất trí với Cáo trạng và quan điểm luận tội của VKSND tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên mức án để áp dụng cho các bị cáo là cao, đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh gia đình các bị cáo là rất khó khăn. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, đều tác động đến gia đình để tự nguyện bồi thường xong về dân sự cho người bị hại (Trừ bị cáo Đới Văn K chưa bồi thường xong). Bị cáo H có bố đẻ Tô Bá Hiếu là người có công với cách mạng, hơn nữa gia đình bị cáo là hộ cận nghèo. Bị cáo T3 được chính quyền địa phương có văn bản đề nghị Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trừ bị cáo T còn các bị cáo khác khi phạm tội đều đang ở lứa tuổi là vị thành niên, hơn nữa đại diện hợp pháp cho người bị hại có đơn và tại phiên tòa xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo (Trừ bị cáo K). Vì vậy, đề nghị HĐXX căn cứ các điểm b; s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 58; Điều 90; Điều 91; 98; Điều 101 và Điều 102 BLHS xử phạt các bị cáo ở mức nhẹ nhất dưới khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, nhanh chóng được trở về hòa nhập với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung, tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo, người bị hại tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y về thương tích của Hồ Đức Anh cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận:

Do mâu thuẫn từ trước giữa Đới Văn K, Tô Văn H và Hồ Đức Anh. Khoảng 23h ngày 16/8/2019 tạ khu vực ngã tư thị trấn Hậu Lộc, các bị cáo Đới Văn K, Tô Văn H, Đinh Văn T, Nguyễn Văn Đ, Trình Chung T và Mai Văn T3 thống nhất cùng nhau đánh anh Hồ Đức Anh để giải quyết mâu thuẫn. Trong lúc xảy ra xô xát, Tô Văn H đã dùng dao nhọn đâm nhiều nhát vào gáy cổ, bụng, lưng anh Hồ Đức Anh. Hậu quả: Anh Hồ Đức Anh bị tổn hại 46% sức khỏe. Hành vi của các bị cáo là đồng phạm với nhau nên phải chịu chung về mặt hậu quả.

[3]. Về vai trò, mức độ tham gia phạm tội của các bị cáo:

Tô Văn H là người có mâu thuẫn từ trước với anh Hồ Đức Anh nên khi K điện thoại nhờ đến giúp, H đã đồng ý đi cùng nhóm K để tìm đánh anh Đức Anh, đồng thời chủ động mượn dao của Đới Văn K để sử dụng khi xảy ra đánh nhau. Khi nhìn thấy Đinh Văn T đánh anh Đức Anh, H đã xông vào xô xát, dùng dao nhọn (là hung khí nguy hiểm) đâm vào vùng bụng, cổ (là các vị trí xung yếu trên cơ thể) của anh Hồ Đức Anh. Việc anh Đức Anh không bị chết là do được cấp cứu kịp thời, nằm ngoài ý thức chủ quan của Tô Văn H. Thương tích của Hồ Đức Anh là do H gây ra nên hành vi của Tô Văn H là tích cực, thể hiện tính chất côn đồ và giữ vai trò chính trong vụ án.

Đới Văn K là người có mâu thuẫn với Đức Anh từ trước nên đã khởi xướng việc cùng cả bọn đi tìm nhóm Đức Anh đánh trả thù. Trước khi xảy ra đánh nhau, K chủ động đưa dao cho Tô Văn H sử dụng để đánh nhau. Khi gặp nhóm Đức Anh, K đã chỉ cho T nhận dạng Đức Anh để T xông vào đánh anh Đức Anh trước. Sau đó, K cùng đồng bọn vây đánh anh Đức Anh, để Tô Văn H dùng dao nhọn đâm anh Đức Anh trọng thương. Hành vi trên của Đới Văn K thể hiện tính chất côn đồ với vai trò là người khởi xướng, thực hành tích cực.

Đinh Văn T không quen biết và không có mâu thuẫn với anh Hồ Đức Anh, nhưng khi biết T2 bị người trong nhóm Đức Anh đánh, T đã thống nhất cùng cả bọn đi tìm đánh nhóm Đức Anh. Khi thấy Đức Anh đến, T đã chủ động xông vào đuổi đánh anh Hồ Đức Anh trước. Trong lúc xảy ra xô xát, biết Tô Văn H đã dùng dao đâm anh Đức Anh nhưng T vẫn tiếp tục cùng các bị cáo khác dùng tay, chân đánh anh Đức Anh là chấp nhận việc để H dùng dao nhọn (là hung khí nguy hiểm) tấn công anh Hồ Đức Anh. Hành vi trên của Đinh Văn T là đồng phạm với vai trò người thực hành tích cực, thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn.

Các bị cáo: Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ và Mai Văn T3 ngay từ đầu đã thống nhất cùng cả bọn đi tìm đánh nhóm anh Đức Anh. Khi nhìn thấy anh Đức Anh bị Đinh Văn T đuổi đánh, các bị cáo T2, Đ và T3 xông vào hỗ trợ cả bọn đánh anh Đức Anh. Mặc dù, khi đi đánh nhau cả 03 bị cáo đều không biết trước việc H có dao, trong lúc xô xát không biết H đã dùng dao đâm vào các vùng xung yếu trên cơ thể anh Đức Anh, có thể tước đoạt tính mạng của Đức Anh. Tuy nhiên việc T2, Đ và T3 đã thống nhất ý chí với đồng bọn trong việc tham gia đánh anh Đức Anh là chấp nhận hậu quả xảy ra. Về ý thức chủ quan và hành vi khách quan của các bị cáo đã thể hiện tính đồng phạm với vai trò là người thực hành, giúp sức cho các bị cáo khác. Tuy không có mâu thuẫn với anh Hồ Đức Anh nhưng việc 03 bị cáo nêu trên đồng ý dùng vũ lực, tham gia đánh anh Đức Anh để giúp đồng bọn giải quyết mâu thuẫn cũng là thể hiện tính chất côn đồ, đồng phạm tội: “Giết người”, quy định tại Điểm n, Khoản 1, Điều 123 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

[4.1] Về nhân thân: Bị cáo Đới Văn K và Đinh Văn T tại Bản án số:12/2020/HS-ST, ngày 24/4/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa tuyên hai bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Đới Văn K 05 năm 03 tháng tù và Đinh Văn T 08 năm 06 tháng tù. Các bị cáo Tô Văn H, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ và Mai Văn T3 đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Sau khi bị bắt và trong quá trình điều tra, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Tô Văn H, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn T3 đã bồi thường xong phần dân sự, bị hại và gia đình có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Đới Văn K cũng đã bồi thường được hai triệu đồng cho người bị hại. Gia đình bị cáo Tô Văn H là hộ cận nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có bố đẻ Tô Bá Hiếu là người có công với cách mạng, bị cáo Mai Văn T3 được UBND xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc có văn bản số 01/CV-UBND ngày 18/3/2020 đề nghị Tòa án xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bố mất sớm, một mình mẹ nuôi ba con nhỏ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. HĐXX cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.

[4.3] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Đây là vụ án “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa Đ. Đối với các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ và Mai Văn T3 tại thời điểm phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều đối tượng tham gia. Vụ án xảy ra trên địa bàn thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nơi tập trung dân cư đông đúc. Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương.

Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Cáo trạng của VKSND tỉnh Thanh Hóa đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hạiTrong quá trình điều tra và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, gia đình các bị cáo Tô Văn H, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Đinh Văn T và Mai Văn T3 đã tự nguyện thỏa thuận và bồi thường xong cho gia đình bị hại Hồ Đức Anh tổng số tiền là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo này. Đối với bị cáo Đới Văn K, gia đình mới bồi thường được 2.000.000đ cho bị hại. Tại phiên tòa gia đình bị cáo Đới Văn K thỏa thuận được với gia đình người bị hại để bồi thường tiếp số tiền 18.000.000đ nên HĐXX cần chấp nhận sự thỏa thuận giữa các bị cáo và người bị hại.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thu giữ được đồ vật, tài liệu, vật chứng gì nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn T3, phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; Các điểm b; s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; Điều 17; Điều 50; Điều 54; Điều 57; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 và Điều 102 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Tô Văn H 07 (Bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (19/9/2019).

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; Các điểm b; s khoản 1 Điều 51, Điều 15; Điều 17; Điều 50; Điều 54; Điều 57; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 và Điều 102 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đới Văn K 07 (Bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; Các điểm b; s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 15; Điều 17; Điều 50; Điều 54; Điều 57; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đinh Văn T 06 (Sáu) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; Các điểm b; s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; Điều 17; Điều 50; Điều 54; Điều 57; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 và Điều 102 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trình Chung T 04 (Bốn) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (28/10/2019).

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 04 (Bốn) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (28/10/2019).

Xử phạt: Mai Văn T3 04 (Bốn) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (28/10/2019).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 246 Bộ luật Tố tụng Dân sự công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa gia đình các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ và Mai Văn T3 với người bị hại anh Hồ Đức Anh.

Áp dụng Điều 586 Bộ luật Dân sự: Buộc gia đình bị cáo Đới Văn K là bà Lê Thị Hoàn (Mẹ bị cáo K) phải tiếp tục bồi thường dân sự số tiền đã thỏa thuận còn lại cho người bị hại Hồ Đức Anh là 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng). Gia đình các bị cáo khác đã bồi thường xong.

Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Tô Văn H, Đới Văn K, Đinh Văn T, Trình Chung T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn T3, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Gia đình bị cáo Đới Văn K là bà Lê Thị Hoàn (Mẹ bị cáo K) còn phải chịu 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu các bị cáo chưa thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng các bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7; 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo và người bị hại. Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/5/2020).

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/5/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

834
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội giết người

Số hiệu:52/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về