Bản án 52/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 03 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXXST-HS, ngày 22 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1.1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc T( tên gọi khác: không), sinh năm 1985; tại Huyện D, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay: thôn C, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc T1 và bà Trần Thị Th; Có vợ: Phạm Ngọc A và 2 con, con lớn sinh năm 2008 con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự : không;

Nhân thân: ngày 22/2/2011 Công an phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 05 xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc; ngày 22/5/2013 Công an phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 12/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc; các xử phạt vi phạm hành chính của bị cáo đã được xóa;

bị tạm giữ từ ngày 29/12/2019 đến ngày 01/01/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

1.2. Họ và tên: Lê Hải N ( tên gọi khác: Không), - Sinh năm 1980; tại xã G, huyện A, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố T, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;Con ông Lê Thanh T và bà Vũ Thị L; Có vợ: Phạm Thái L và 2 con, con lớn sinh năm 2012 con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: ngày 04/07/2009 Công an phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình ra quyết định số 30/XLHC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc; bản án số 78/2014/HSS ngày 22/07/2014, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 7.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”; án tích và xử phạt vi phạm hành chính của bị cáo đã được xóa;

bị tạm giữ từ ngày 29/12/2019 đến ngày 01/01/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

1.3. Họ và tên: Tạ Quang H, ( tên gọi khác: không) - Sinh năm 1983; tại N, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố P, phường Ph, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Quang H và bà Nguyễn Hồng M; Có vợ: Đào Thị Ph và 2 con, con lớn sinh năm 2011 con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 29/12/2019 đến ngày 01/01/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

1.4. Họ và tên: Trương Ngọc C, ( tên gọi khác: không), - Sinh năm 1980; tại xã N, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố T, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Ngọc C và bà Nguyễn Thị H; Có vợ: Trần Thị H(đã ly hôn), không có con; tiền án, tiền sự: không;

bị tạm giữ từ ngày 29/12/2019 đến ngày 01/01/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt).

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Phạm Ngọc A, sinh năm 1985; Trú tại: thôn C, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; ( vắng mặt);

- Chị Phạm Thái L, sinh năm 1982; Trú tại: số nhà 14, ngõ 469, đường Lê Thái Tổ, phố T, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; (vắng mặt).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 29/12/2019 Lê Hải N, Trương Ngọc C, Tạ Quang H đến nhà Nguyễn Ngọc T ở thôn C, xã N, thành phố N chơi. Trong quá trình ngồi uống nước T nói “ngồi buồn quá anh em mình làm tý lốc đi”, N, H, C đồng ý.

Khong 14 giờ 30 phút cả hội trải chiếu ngồi dưới nền nhà trong phòng khách nhà T, T mang bộ bài tú lơ khơ ra để đánh bạc dưới hình thức đánh lốc được thua bằng tiền. Cách chơi lốc được cả hội thống nhất là sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân chia cho mỗi người chơi 10 lá bài, ai là người thắng ván trước sẽ được chia bài và đánh trước, thứ tự đánh theo chiều kim đồng hồ; quân bài 2 là lớn nhất, quân bài 3 là nhỏ nhất, người đánh trước có thể đánh lẻ từng quân, đánh đôi, đánh ba, đánh bốn, đánh sảnh; người đánh tiếp theo phải đánh các lá bài có giá trị lớn hơn đến khi người nào đánh hết bài trên tay trước thì sẽ là người thắng; cách tính thắng thua như sau: thắng bình thường là người chơi đánh hết số bài chia ban đầu sớm nhất sẽ là người thắng và được thu của những người chơi còn lại 10.000 đồng tương ứng với 01 lá bài trên tay chưa đánh được; khi bắt đầu chơi bài nếu người nào xin làng ( xin đánh trước) mà không ai chặn được thì mỗi người chơi còn lại phải mất cho người xin làng 300.000 đồng nếu người chơi xin làng bị chặn lốc thì phải trả cho người chặn lốc số tiền 900.000 đồng; người nào đánh quân “2” mà bị chặn “tứ quý” thì phải trả cho người chặn số tiền 300.000 đồng; ăn trắng khi người chơi có dây sảnh kéo dài hết bài hoặc tứ quý 2 hoặc 10 lá bài cùng màu không cùng chất hoặc 3 sám cô hoặc 5 đôi thì người thắng được hưởng 200.000 đồng từ những người chơi còn lại. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì chị Phạm Thái L (là vợ của N) và chị Phạm Ngọc A (là vợ của T) cùng đi về nhà T, thấy cả hội đang đánh bạc thì cùng ngồi xem. T, H, N, C đánh bạc bằng hình thức, quy ước nêu trên đến khoảng 17 giờ 20 cùng ngày thì bị Tổ công tác Đội cảnh sát hình sự Công an thành phố Ninh Bình phối hợp với Công an xã N, thành phố N phát hiện, bắt quả tang thu giữ trên chiếu bạc số tiền 3.980.000 đồng ( trong đó của H 3.130.000 đồng, của C 850.000đ để ở trên chiếu trước mặt ), 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; thu giữ tại túi quần trước bên phải của T số tiền 100.000 đồng, thu giữ ở túi quần sau bên phải của H số tiền 4.600.000 đồng, thu giữ tại túi quần trước bên phải của N số tiền 1.450.000 đồng; thu giữ tại kệ ti vi ngay cạnh chỗ các đối tượng đánh bạc số tiền 2.000.000 đồng, T khai nhận đây là tiền của T khi thấy công an đến do sợ nên T đã giấu tiền ở đó; thu giữ ở túi áo khoác bên phải của chị Phạm Thái L số tiền 7.037.000 đồng, thu giữ của chị Phạm Ngọc A số tiền 3.117.000đồng ( trong đó 600.000 đồng ở túi quần sau bên phải và 2.517.000 đồng ở vị trí phía sau kệ ti vi ).

Quá trình điều tra Nguyễn Ngọc T, Lê Hải N, Trương Ngọc C, Tạ Quang H khai nhận tổng số tiền dùng đánh bạc là 12.130.000 đồng trong đó: T dùng đánh bạc số tiền là 3.500.000 đồng ( khi bị bắt đang thua số tiền 1.400.000đ, thu giữ trong người và dưới kệ ti vi là 2.100.000 đồng); N dùng đánh bạc số tiền là 2.700.000 đồng (khi bị bắt đang thua số tiền 1.250.000đ, thu giữ trong người là 1.450.000 đồng); C dùng đánh bạc số tiền là 1.100.000 đồng ( khi bị bắt đang thua số tiền 250.000đ, thu giữ ở trên chiếu trước mặt 850.000 đồng); H dùng đánh bạc số tiền là 4.830.000 đồng ( khi bị bắt đang thắng số tiền 2.900.000 đồng, số tiền bỏ ra chơi để trên chiếu là 230.000đ, thu giữ trong người là 4.600.000 đồng).

Đi với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và số tiền 12.130.000 đồng thu giữ của T, H, N, C sử dụng vào việc đánh bạc, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình đã chuyển giao Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình để xử lý cùng vụ án.

Tại cáo trạng số 44/CT- VKS, ngày 10 tháng 03 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Lê Hải N, Nguyễn Ngọc T, Trương Ngọc C và Tạ Quang H ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lê Hải N, Nguyễn Ngọc T, Trương Ngọc C và Tạ Quang H phạm tội “Đánh bạc”;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự ; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 09 - 12 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 3 ngày tạm giữ quy đổi 09 ngày cải tạo không giam giữ; Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã N, thành phố N trong việc giám sát giáo dục. Khấu trừ từ 5% - 7% thu nhập hàng tháng để sung ngân sách Nhà nước. Thời hạn tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã N, thành phố N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Phạt tiền bổ sung từ 10.000.000 đồng - 12.000.000đ.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự ; xử phạt bị cáo Lê Hải N 09 -12 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 3 ngày tạm giữ quy đổi 09 ngày cải tạo không giam giữ; Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường N, thành phố N trong việc giám sát giáo dục. Khấu trừ từ 5% - 7% thu nhập hàng tháng để sung ngân sách Nhà nước. Thời hạn tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Phạt tiền bổ sung từ 10.000.000 đồng - 12.000.000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự đối với bị cáoTạ Quang H và bị cáo Trương Ngọc C; xử phạt bị cáo Tạ Quang H từ 22.000.000 đồng - 25.000.000 đồng; bị cáo Trương Ngọc C 20.000.000 đồng - 22.000.000 đồng;

Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS: Tịch thu tiêu hủy bộ bài tú lơ khơ 52 quân; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 12.130.000 đồng các bị cáo dùng đánh bạc;

Áp dụng Điều 136BLTTHS; nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; các bị cáo phải nộp án phí hình sư sơ thẩm, mỗi bị cáo 200.000đồng.

* Tại phiên tòa các bị cáo Lê Hải N, Nguyễn Ngọc T, Trương Ngọc C và Tạ Quang H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo: lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai, bản kiểm điểm của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ...Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: khoảng 17 giờ 20 phút ngày 29/12/2019, tại nhà Nguyễn Ngọc T ở thôn C, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Lê Hải N, Trương Ngọc C, Tạ Quang H đã có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân đánh “lốc” được thua bằng tiền với tổng số tiền dùng đánh bạc là 12.130.000 đồng ( trong đó T dùng đánh bạc số tiền là 3.500.000 đồng, N dùng đánh bạc số tiền là 2.700.000 đồng, C dùng đánh bạc số tiền là 1.100.000đồng, H dùng đánh bạc số tiền là 4.830.000 đồng ) thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự .

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Từ việc đánh bạc dẫn đến tiêu tán tài sản, kinh tế của nhiều gia đình, cá nhân và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ đánh bạc dưới hình thức đánh “lốc” được thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm, nhưng vì ham vui, muốn kiếm tiền nhanh chóng nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

Về nhân thân: các bị cáo H, C có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo T 2 lần bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, bị cáo N 1 lần bị kết án và 1 lần bị xử phạt hành chính đều về hành vi đánh bạc mặc dù đã được xóa nhưng thể hiện bị cáoT, N là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo T, H, N, C đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo T, H, Cphạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, đều là những người thực hiện. Bị cáo T là người khởi xướng, chuẩn bị bộ bài, rủ các bị cáo N, C, H đánh bạc tại nhà của mình, số tiền dùng đánh bạc là 3.500.000đồng nhiều thứ 2 so với các bị cáo khác nên bị cáo giữ vai trò đầu vụ; Bị cáo Lê Hải N, Tạ Quang H, Trương Ngọc C khi được bị cáo T rủ đánh bạc đã không can ngăn mà còn tích cực tham gia, số tiền dùng đánh bạc của bị cáo H là 4.830.000 đồng nhiều nhất so với các bị cáo khác nên bị cáo giữ vai trò thứ 2; số tiền dùng đánh bạc của bị cáo N là 2.700.000 đồng nên giữ vai trò thứ 3, số tiền dùng đánh bạc của bị cáo C ít nhất là 1.100.000đồng nên giữ vai trò cuối trong vụ án.

* Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử thấy: bị cáo Nguyễn Ngọc T là người giữ vai trò đầu vụ, bị cáo Lê Hải N là người giữ vai trò thứ 3 nhưng đều có nhân thân xấu bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc trong đó bị cáo N có 1 lần bị kết án về tội đánh bạc, bị cáo T có 2 tình tiết giảm nhẹ, bị cáo N có 1 tình tiết giảm nhẹ nên mức hình phạt của hai bị cáo sẽ tương đương nhau; bị cáo N và bị cáo T đều phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng nên chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt cải tạo không giam giữ, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát, giáo dục cũng đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội; Các bị cáo đều làm nghề tự do, thu nhập không ổn định nên trong thời gian chấp hành án hàng tháng các bị cáo bị khấu trừ một phần thu nhập là 5% để sung quỹ nhà nước; các bị cáo bị tạm giữ 03 ngày (từ ngày 29/12/2019 đến ngày 01/01/2020) nên được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 09 ngày (cứ 1 ngày tạm giữ bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ). Các bị cáo Tạ Quang H, Trương Ngọc C đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử thấy chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo; do số tiền dùng đánh bạc của bị cáo H cao nhất nên hình phạt tiền đối với bị cáo H sẽ cao hơn so với bị cáo C.

Về hình phạt bổ sung: theo khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc để thu lời bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để sung quỹ nhà nước nhưng do bị cáo H và bị cáo C đã áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Từ nhận định trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Các vấn đề khác:

- Quá trình điều tra xác định bị cáo Nguyễn Ngọc T sử dụng nhà của mình để đánh bạc nhưng số người đánh bạc dưới 10 người, chỉ có 1 chiếu bạc, không thu tiền hồ nên không đủ yếu tố cấu thành tội “ Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”.

- Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đi với số tiền 7.037.000 đồng thu giữ của chị Phạm Thái L và 3.117.000 đồng thu giữ của chị Phạm Ngọc A: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Phạm Thái L và chị Phạm Ngọc A không liên quan đến việc đánh bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho chị L và chị A là đúng quy định của pháp luật.

Đi với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân thu giữ của các bị cáo: đây là công cụ các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy ;

Đi với số tiền 12.130.000 đồng thu giữ của các bị cáo Lê Hải N, Nguyễn Ngọc T, Trương Ngọc C và Tạ Quang H : đây là số tiền dùng đánh bạc nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ :

- khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T và bị cáo Lê Hải N; bị cáo Nguyễn Ngọc T áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự đối với bị cáoTạ Quang H và bị cáo Trương Ngọc C.

- Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Lê Hải N, Trương Ngọc C và Tạ Quang H phạm tội “ Đánh bạc”.

- Xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Ngọc T 12 ( mười hai tháng) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ; Bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã N, thành phố N nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Nguyễn Ngọc T cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã N, thành phố N trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo Nguyễn Ngọc T còn bị khấu trừ một phần thu nhập là 05% để nộp ngân sách Nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Ngọc T 12.000.000đ (mười hai triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

+ Bị cáo Lê Hải N 12 ( mười hai tháng) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ; Bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Lê Hải N cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường N, thành phố N trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo Lê Hải N còn bị khấu trừ một phần thu nhập là 05% để nộp ngân sách Nhà nước. Phạt bổ sung bị cáo Lê Hải N 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

+ Bị cáo Tạ Quang H 24.000.000 đồng ( hai mươi bốn triệu đồng) để nộp Ngân sách nhà nước.

+ Bị cáo Trương Ngọc C 20.000.000 đồng ( hai mươi triệu đồng) để nộp Ngân sách nhà nước.

- Xử lý vật chứng:

Tch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền dùng đánh bạc là 12.130.000 đồng ( mười hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng);

Tch thu tiêu hủy 52 quân bài tú lơ khơ;

(số tiền 12.130.000 đồng hiện đang ở tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình tại Kho bạc Nhà nước thành phố Ninh Bình , theo ủy nhiệm chi lập ngày12/3/2020; tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/3/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

- Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Lê Hải N, Trương Ngọc C và Tạ Quang H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Án xử sơ thẩm công khai các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:52/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về