Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 26/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 182/2020/TLST-HNGĐ ngày 04/6/2020 về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10/8/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị V, sinh năm 1991 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: thôn L, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang Chỗ ở: xã D, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: thôn L, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Ngô Thị V trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Văn Q vào ngày 16/3/2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X. Sau khi kết hôn chị về gia đình anh Q làm dâu, sinh sống và làm ăn ngay. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh Q thường xuyên tụ tập chơi bời với bạn bè, uống rượu say rồi về nhà chửi mắng, đánh đập vợ con. Từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng, không ai bảo được ai, không còn tin tưởng, quan tâm gì đến nhau, tình cảm vợ chồng dần trở nên lạnh nhạt. Khoảng cuối tháng 5/2020 anh Q lại uống rượu say rồi về nhà chửi mắng, đánh đập chị nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay, không quay lại chung sống cùng anh Q nữa. Ngày 23/7/2020 khi chị về thăm con thì anh Q lại tiếp tục đánh đập chị nên việc anh Q nói vẫn còn tình cảm với chị và hứa sửa đổi là không đúng, giả tạo. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể chung sống cùng nhau được nữa nên chị xin được ly hôn với anh Q.

Về con chung: vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Hoàng Long, sinh ngày 02/6/2010 và Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 18/11/2012. Hiện nay cả hai con chung đều đang ở cùng với anh Q, các cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường. Ly hôn chị đồng ý để anh Q tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung. Vì chị không muốn hai con phải sống xa nhau và muốn các con ổn định trong sinh hoạt, học tập.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn là anh Nguyễn Văn Q trình bày:

Anh xác nhận thời gian kết hôn, đăng ký kết hôn như chị V trình bày là đúng. Về quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng anh sống hòa thuận, hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì lớn sảy ra. Sau một thời gian chung sống thì vợ chồng có sảy ra mâu thuẫn do anh đi uống rượu với bạn bè rồi về nhà không làm chủ được bản thân nên vợ chồng to tiếng, cãi nhau, đánh nhau. Ngày 23/5/2020 vợ chồng tiếp tục sảy ra mâu thuẫn, anh có đánh chị V mấy cái rồi chị V bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Anh có lên nhà bảo chị V quay về nhưng chị V không nghe. Anh xác định vẫn còn tình cảm, vẫn còn yêu thương chị V. Anh muốn vợ chồng về đoàn tụ cùng nuôi dạy con chung. Vì vậy, anh không đồng ý ly hôn với chị V.

Về con chung: vợ chồng anh có 02 con chung là Nguyễn Hoàng Long, sinh ngày 02/6/2010 và Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 18/11/2012. Hiện nay cả hai con chung đều đang ở cùng với anh. Các cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường. Ly hôn anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi anh Q, chị V cư trú và tại gia đình anh Q thấy: Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng anh Q, chị V hòa thuận, hạnh phúc. Trong khoảng thời gian gần đây vợ chồng anh Q, chị V thường xuyên sảy ra mâu thuẫn to tiếng, đánh cãi, chửi nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không bảo ban được nhau. Anh Q tính tình nóng nảy, thường hay uống rượu say và mỗi lần đi uống rượu về thì vợ chồng lại cãi chửi, đánh nhau. Chị V đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ ngày 23/5/2020 cho đến nay. Gia đình có khuyên bảo nhưng chị V cương quyết không về chung sống cùng anh Q nữa.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Q đều vắng mặt mà không có lý do nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa: Chị V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với anh Q. Về con chung: Chị đồng ý để anh Q nuôi dưỡng cả hai con chung, vì các con đều có nguyện vọng xin được ở với anh Q và do điều kiện kinh tế, chỗ ở của chị không đảm bảo để nuôi con phát triển tốt về mọi mặt như anh Q được. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Anh Q không đồng ý ly hôn với chị V. Trường hợp nếu ly hôn thì anh xin được nuôi dưỡng cả hai con chung. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa:

 - Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh Q còn vắng mặt không có lý do tại phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

- Nội dung giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn Q.

Về con chung: Công nhận thỏa thuận, giao cho anh Nguyễn Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Nguyễn Hoàng Long, sinh ngày 02/6/2010 và Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 18/11/2012.

Về án phí: Chị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn khởi kiện của chị Ngô Thị V cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện Lạng Giang. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều có mặt.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị V và anh Nguyễn Văn Q có đăng ký kết hôn vào ngày 16/3/2009 tại UBND xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị V, anh Q là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Lời khai của chị V, anh Q phù hợp với biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương và gia đình anh Q đều xác định vợ chồng chị V, anh Q có sảy ra nhiều mâu thuẫn to tiếng, cãi nhau, xô xát đánh nhau. Đến ngày 23/5/2020 giữa anh Q, chị V đã mâu thuẫn trầm trọng nên chị V đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở, không quay lại chung sống cùng anh Q nữa.

Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị V và ý kiến của anh Q không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy rằng, trong thời gian sống chung vợ chồng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ về nhân thân, không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ mọi việc, không giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, vợ chồng đã sảy ra nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn được và ngày càng trầm trọng dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ cuối tháng 5/2020 đến nay, việc này trái với các quy định tại các điều 19, 21 luật Hôn nhân gia đình. Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình và Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn thì thấy rằng: Tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V đối với anh Q.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị V, anh Q có 02 con chung là Nguyễn Hoàng Long, sinh ngày 02/6/2010 và Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 18/11/2012. Hiện cả hai con chung đều đã trên 07 tuổi và đều có ý kiến xin được ở cùng với anh Q. Đồng thời, chị V và anh Q cũng đều thống nhất thỏa thuận là để anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Vì vậy cần công nhận thỏa thuận, giao cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị V, anh Q đều không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Chị V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị V thực hiện quyền này.

Chị V có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị V, anh Q không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: Chị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn Q.

2. Về con chung: Công nhận thỏa thuận, giao cho anh Nguyễn Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Nguyễn Hoàng Long, sinh ngày 02/6/2010 và Nguyễn Văn Vinh, sinh ngày 18/11/2012.

Sau khi ly hôn chị V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị V thực hiện quyền này.

Chị V, anh Q có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị V, anh Q không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Ngô Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0002357 ngày 04/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về