Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kỳ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2020/TLST-HNGĐ ngày 7 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp về nuôi con, tài sản của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐST-HNGĐ ngày 4 tháng 8 năm 2020.

- Nguyên đơn: Chị Mùa Y R, sinh năm 1985. Có mặt.

Địa chỉ cư trú: Bản TrT, xã HT, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Hờ Bá C, sinh năm 1980. Có mặt.

Địa chỉ cư trú: Bản TrT, xã HT, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

- Người đại diện theo pháp luật cho anh Hờ Bá C: Anh Hờ Giống X, sinh năm 1978. Trú tại: Bản TrT, xã HT, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. (Anh trai Hờ Bá C). Có Mặt.

- Người phiên dịch cho anh Hờ Bá C: Chị Phan Thị H. Nghề nghiệp: Giáo viên phòng chuyên biệt bán hòa nhập.

Nơi công tác: Trung tâm giáo dục và dạy nghề người khuyết tật tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 10/4/2020, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Mùa Y R trình bày:

Về quan hệ tình cảm: Chị và anh Hờ Bá C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, không đăng ký kết hôn tại UBND xã, thị trấn mà chỉ tổ chức lễ cưới, mời hai họ, anh em tới dự lễ cưới theo phong tục của đồng bào dân tộc tại địa phương. Sau thời gian chung sống hạnh phúc được một thời gian thì chị và anh Hờ Bá C bắt đầu xảy ra mẫu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình, suy nghĩ, anh Hờ Bá C không quan tâm, chăm sóc chị, hay nghi ngờ ghen tuông chị có quan hệ bất chính với người khác và bạo lực gia đình và xúc phạm tới danh dự sức khỏe, đã nhiều lần việc mâu thuẫn diễn ra chị đi về bên nhà bố mẹ đẻ để sinh sống và được anh em hai bên nội ngoại hòa giải đoàn tụ với nhau nhưng tình cảm cũng không được cải thiện. Chị và anh Hờ Bá C ly thân nhau từ năm 2019 cho đến nay, không liên lạc, hỏi han, quan tâm nhau. Nay chị không còn tình cảm với anh Hờ Bá C nên không muốn tiếp tục chung sống đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố chị và anh Hờ Bá C không phải là vợ chồng.

Về con chung: Chị và anh Hờ Bá C có 02 con chung: Hờ Công T sinh ngày 26/3/2012 và Hờ Công Tr sinh ngày 11/12/2013, chị Mùa Y R yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con và không yêu cầu anh Hờ Bá C phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Mùa Y R trình bày chị và anh Hờ Bá C không có tài sản chung và các khoản nợ. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Hờ Bá C trình bày:

Về quan hệ tình cảm: Anh thừa nhận về thời điểm hai người tự nguyện chung sống, không đi đăng ký kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán đúng như chị Mùa Y R trình bày. Lý do hai người không đi đăng ký kết hôn là do cả hai không hiểu biết quy định của pháp luật. Sau khi tổ chức lễ cưới theo phong tục của người Mông thì cuộc sống giữa anh và chị R diễn ra hạnh phúc bình thường, không có mâu thuẫn gì. Nay anh đang còn tình cảm với chị R nên muốn hai người tiếp tục chung sống với nhau đồng thời sẽ làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh và chị Mùa Y R có 02 con chung: Hờ Công T sinh ngày 26/3/2012 và Hờ Công Tr sinh ngày 11/12/2013 nếu phải chấm dứt việc sống chung như vợ chồng với chị Mùa Y R anh yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và yêu cầu chị R phải cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng cho đến khi 02 con trưởng thành mỗi tháng là 3.000.000 đ (Ba triệu đồng), tại phiên tòa anh thay đổi yêu cầu cấp dưỡng là mỗi tháng anh yêu cầu chị Mùa Y R phải cấp dưỡng nuôi con chung cho 02 con cho đến khi trưởng thành là 4.000.0000 đ (Bốn triệu đồng).

Về tài sản chung: Anh và chị Mùa Y R hiện nay không có tài sản chung, anh yêu cầu chị Mùa Y R phải trả cho anh 08 bì lúa vì anh đã bỏ công sức để đi làm nương rẫy cùng chị R vào năm 2018 có thu được 16 bì lúa, đồng thời yêu cầu chị R phải thanh toán cho anh số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) là số tiền từ tiền trợ cấp hàng tháng của anh tích cóp mà có, do chị R đi làm công ty đã lấy của anh để đi, ngoài ra không có các khoản nợ chung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp; Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 239 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 9, 14, 15, 52, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Về hôn nhân: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C không phải là vợ chồng:

Về con chung: Giao các con Hờ Công T sinh ngày 26/3/2012 và Hờ Công Tr sinh ngày 11/12/2013 cho chị Mùa Y R được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Hờ Bá C do chị Mùa Y R không yêu cầu.

Về tài sản chung và các khoản nợ: Không có tài sản chung và các khoản nợ. Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Đối với yêu cầu của bị đơn Hờ Bá C yêu cầu chị Mùa Y R trả lại cho anh 08 bì lúa và số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) quá trình chung sống số lúa đã được sử dụng và bán hết hiện nay không còn, đối với số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) đã chi tiêu sinh hoạt hết, bị đơn không chứng minh được yêu cầu nên không có căn cứ chấp nhận.

Về án phí: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C thuộc hộ nghèo và sinh sống ở vùng sâu vùng xa, có điều kiện kinh tế khó khăn nên miễn toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Chị Mùa Y R yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận chị và anh Hờ Bá C là vợ chồng có địa chỉ cư trú tại xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về “Tranh chấp về nuôi con của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn theo quy định tại khoản 7 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tình cảm chung sống với nhau như vợ chồng: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010 không đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà chỉ làm lễ cưới theo phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số nên theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình thì quan hệ giữa chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của vợ và chồng. Sau thời gian chung sống với nhau thì giữa hai người có phát sinh mâu thuẫn nên đã không còn chung sống với nhau, nguyên nhân là do anh Hờ Bá C là người khuyết tật (Câm và điếc) hay ghen tuông và có hành vi bạo lực gia đình với chị Mùa Y R, việc mâu thuẫn đã diễn ra trong thời gian dài và đã được hai bên nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải đoàn tụ nhưng vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, nay chị R không còn tình cảm với anh Của không muốn tiếp tục duy trì cuộc sống chung. Mặc dù nguyện vọng của anh Của là muốn tiếp tục duy trì cuộc sống chung và sẽ làm các thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định nhưng chị R lại không đồng ý. Mặt khác, tuy anh C khai đang còn tình cảm với chị R muốn tiếp tục chung sống nhưng anh cũng không có biện pháp, cách thức gì để hàn gắn tình cảm hai người với nhau. Xét thấy, việc chung sống và thời gian chung sống giữa chị R và anh Của là đúng thực tế, cả hai không đăng ký kết hôn nên căn cứ các Điều 9, 14 của Luật Hôn nhân và gia đình thì chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C không phải là vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C trong quá trình chung sống chung có 02 con chung: Hờ Công T sinh ngày 26/3/2012 và Hờ Công Tr sinh ngày 11/12/2013. Quá trình khởi kiện và giải quyết vụ án nguyên đơn chị Mùa Y R yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh Hờ Bá C cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, anh Hờ Bá C trình bày trong quá trình giải quyết vụ án anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 02 con chung và yêu cầu chị Mùa Y R phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 3.000.0000 đ (Ba triệu đồng) cho đến khi 02 con trưởng thành, tại phiên tòa anh thay đổi yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung anh C yêu cầu chị Mùa Y R phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng cho 02 con là 4.000.000 đ (Bốn triệu đồng). Xét, Cháu Hờ Công T hiện nay đã 07 tuổi và có đơn trình bày nguyện vọng được ở với anh Hờ Bá C, và anh C cũng có yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, thấy rằng anh Hờ Bá C là người khuyết tật (Câm và điếc) nên không có khả năng để chăm sóc và giáo dục các con việc giao con chung cho anh C là không đảm bảo về sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ, để có điều kiện tốt cho sự phát triển và được chăm sóc con chung và theo yêu cầu của chị Mùa Y R là được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, thể hiện tình yêu thương và trách nhiệm của người mẹ giành cho các con nên cần giao các cháu Hờ Công T và Hờ Công Tr cho chị Mùa Y R trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành là phù hợp.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị Mùa Y R không yêu cầu anh Hờ Bá C cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Của do chị R không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C thống nhất không có tài sản chung và không có các khoản nợ, tại phiên tòa không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét.

[5] Đối với yêu cầu của anh Hờ Bá C yêu cầu chị Mùa Y R phải trả 08 bì lúa vì anh đã bỏ công sức để đi làm nương rẫy cùng chị R vào năm 2018 có thu được 16 bì lúa (hiện nay đã sử dụng và bán hết), đồng thời yêu cầu chị R phải thanh toán cho anh số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) là số tiền từ tiền trợ cấp hàng tháng của anh tích cóp mà có, do chị R đi làm công ty đã lấy của anh để đi. Xét, quá trình chung sống với nhau như vợ chồng anh Của và chị R có lao động sản xuất và làm nưỡng rẫy và có thu được số lúa là 16 (Mười sáu) bì lúa vào năm 2018, quá trình sinh sống số lúa tRn chị R đã bán được số tiền là 4.000.000 đ (Bốn triệu đồng) và dùng chi tiêu vào sinh hoạt cho gia đình hiện nay đã hết, còn số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) anh Hờ Bá C yêu cầu chị R phải trả cho anh khi chị R đi làm công ty có lấy để đưa đi, chị R không thừa nhận việc có sử dụng số tiền đó của anh Của để đi làm công ty mà trình bày gia đình chị thuộc hộ nghèo không có khoản tiền tích trữ, sống phụ thuộc vào tiền trợ cấp xã hội của anh Hờ Bá C, hàng tháng khi còn chung sống chị R thừa nhận có được đi nhận thay số tiền trợ cấp hàng tháng là 410.000 đ (Bốn trăm mười nghìn đồng) và chị là người quản lý và sử dụng số tiền đó vào cho sinh hoạt trong gia đình hết. Yêu cầu của anh Hờ Bá C yêu cầu chị Mùa Y R phải trả cho anh 08 bì lúa và số tiền 5.000.000 đ (Năm triệu đồng) là không phù hợp nên không có căn cứ để chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Mùa Y R là đối tượng thuộc hộ nghèo, sinh sống ở vùng sâu vùng xa, có điều kiện kinh tế khó khăn nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 35, 39, 147, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Mùa Y R.

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao con chung Hờ Công T sinh ngày 26/3/2012 và Hờ Công Tr sinh ngày 11/12/2013 cho chị Mùa Y R được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Hờ Bá C do chị Mùa Y R không yêu cầu. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con. Anh Hờ Bá C có quyền, nghĩa vụ chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Không chấp nhận yêu cầu của anh Hờ Bá C về yêu cầu chị Mùa Y R phải trả 08 bì lúa và 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

4. Về án phí: Miễn toàn bộ số tiền án phí ly hôn sơ thẩm cho chị Mùa Y R.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Mùa Y R và anh Hờ Bá C, người đại diện hợp pháp cho anh Hờ Bá C có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về