TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 52/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2019/TLST-HS, ngày 15/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hồ Văn L, sinh ngày 16/4/2000; tại tỉnh: Tây Ninh; Nơi đăng ký NKTT và trú tại: ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hồ Văn L, sinh năm 1979 và bà: Lê Ngọc N, sinh năm 1980; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn áp dụng: Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/10/2019. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. (Bị cáo có mặt).
- Người bị hại: Ông Nguyễn Xuân Chiến, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn Tân Bình 2, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hoàng Văn L, sinh năm 1991; địa chỉ: Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil – Vắng mặt.
2. Ông Phan Trọng H, sinh năm 1979; địa chỉ: Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1987; địa chỉ: Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giamCông an tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
4. Ông Hồ Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ: Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil – Có mặt.
5. Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1986; địa chỉ: Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
6. Ông Tạ Phú L, sinh năm 1998; địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tây Ninh – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 19/12/2018, Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Đình T đón xe khách từ bến xe Miền Đông – Thành phố Hồ Chí Minh về nhà Hoàng Văn L ở xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để chơi. Khi đi đến tỉnh Bình Dương, Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Đình T đón Phan Trọng H đi về cùng (khi đi Hoàng Văn L mang theo 01 xe mô tô biển kiểm soát 71C4-320.69 màu đen; Nguyễn Đình T mang theo 01 xe mô tô chưa xác định được biển kiểm soát, để làm phương tiện đi lại). Đến địa phận huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Đình T và Phan Trọng H thuê phòng số 105 tại nhà nghỉ Anh Tú ở thôn Đức Sơn, xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để nghỉ.
Do có quen biết với Hồ Văn T nên Nguyễn Đình T đã trao đổi với Hồ Văn T về việc Nguyễn Đình T sẽ đi trộm cắp xe mô tô ở địa bàn huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông bán cho Hồ Văn T thì được Hồ Văn T đồng ý. Sáng ngày 20/12/2018, Nguyễn Đình T rủ Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Phan Trọng H đi trộm cắp xe mô tô tại huyện Đắk Mil để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Phan Trọng H đồng ý. Trước khi đi trộm cắp xe mô tô, khoảng 16 giờ ngày 20/12/2018, Nguyễn Đình T điện thoại cho Hồ Văn T nói đưa người xuống huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để nhận xe mô tô do Nguyễn Đình T trộm cắp. Từ ngày 20/12/2018 đến ngày 21/12/2018, Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Nguyễn Đình T và Phan Trọng H đã thực hiện 02 vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đắk Mil và 02 vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Trong đó:
Khoảng 19 giờ ngày 20/12/2018, Hoàng Văn L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71C4-320.69 chở Nguyễn Đình T từ nhà nghỉ Anh Tú đến khu vực thôn Đắk Hòa 1, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song thì phát hiện 01 xe mô tô hiệu Yamah Exiter màu đỏ-trắng, biển kiểm soát 48D1-189.79 của anh Nguyễn Xuân Chiến để trước sân quán Internet không có người trông coi nên Hoàng Văn L xuống xe đi lại dùng tay tháo ổ điện rồi dắt xe ra ngoài lề đường nổ máy điều khiển về lại thôn Tân Bình 2, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song giao cho Phan Trọng H, Nguyễn Đình T đưa đến khu vực lô cao su tại thôn Tân Bình 2, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông để cất giấu.
Sau khi trộm cắp xong xe mô tô hiệu Yamaha Exiter màu đỏ-trắng, biển kiểm soát 48D1-189.79 (cùng với 03 chiếc xe mô tô ở vụ án khác), Nguyễn Đình T điện thoại thông báo cho Hồ Văn T biết đã trộm cắp được 03 xe mô tô hiệu Yamaha Exiter và nói Hồ Văn T đưa người xuống để chạy xe mô tô do Nguyễn Đình T đã trộm cắp về tiêu thụ. Hồ Văn T gọi điện thoại cho Lê Văn Đ, Tạ Phú Lay, Hồ Văn L và Tống Văn Đ thuê đi đưa xe mô tô do Nguyễn Đình T trộm cắp về để tiêu thụ thì Lê Văn Đ, Tạ Phú Lay, Hồ Văn L, Tống Văn Đ đều đồng ý. Hồ Văn T điều khiển xe ô tô hiệu Fortuner màu trắng-bạc, biển kiểm soát 51A-682.89 chở Tống Văn Đ, Tạ Phú Lvà Hồ Văn L lên huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, đến khoảng 02 giờ sáng ngày 21/12/2018, khi đi đến khu vực ngã 3 Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Hồ Văn T gặp và chở Nguyễn Đình T, Nguyễn Hồng Q ở nhà nghỉ Anh T đi đến lô cao su thuộc thôn Tân Bình 2, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông (khu vực mà T, L, Q, H đã giấu xe mô tô trộm cắp). Tại đây, Thu giao xe mô tô biển kiểm soát 48D1 – 189.79 cùng 03 chiếc xe trộm cắp ở vụ án khác cho Hồ Văn T, sau đó Hồ Văn T giao cho Hồ Văn L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 48D1 – 189.79 về ấp Tho Mo thuộc xã Mỹ Quý Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An để sau đó Hồ Văn L bán cho một đối tượng tên Roll (chưa xác định được nhân thân lai lịch) cùng 03 chiếc xe mô tô đã trộm cắp ở vụ án khác vào lúc 17 giờ 00 phút ngày 21/12/2018 được 52.000.000 đồng, sau đó Tơi trả cho Hồ Văn L 800.000 đồng tiền công.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Song kết luận 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exiter màu đỏ - trắng, biển kiểm soát 48D1 – 189.79 có giá trị còn lại là 28.800.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 53/CTr-VKS ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk Mil để xét xử bị cáo Hồ Văn L về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hồ Văn L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 323; điềm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn L 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm đến 02 năm 06 tháng tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Hồ Văn L về cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh nơi bị cáo cư trú và gia đình phối hợp giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên trả tự do cho bị cáo Hồ Văn L ngay tại phiên toà.
- Về trách nhiệm dân sự: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
- Về vật chứng của vụ án: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
Tại phiên toà, bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin Tòa án xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:
Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người bào chữa, bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi khách quan và hậu quả do hành vi khách quan của bị cáo gây ra, bị cáo khai nhận như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, những người tham gia tố tụng và các chứng cứ, tài liệu thu thập có lưu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.
Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Sáng ngày 21/12/2018, tại lô cao su thuộc thôn Tân Bình 2, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông. Bị cáo Hồ Văn L đã có hành vi tiếp nhận từ Hồ Văn T chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exiter màu đỏ- trắng, biển kiểm soát 48D1-189.79 (có giá trị còn lại là 28.800.000 đồng) do Hồ Văn Linh và đồng phạm trộm cắp vào ngày 20/12/2018 tại thôn Đắk Hòa 1, xã Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông để mang về ấp Tho Mo thuộc xã Mỹ Quý Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An để tiêu thụ.
Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Xét quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Hồ Văn L đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của BLHS.
Điều 323 BLHS quy định:
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
….
[3] Đánh giá tính chất vụ án:
Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác và làm mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết được việc xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật, lười lao động, để có tiền tiêu xài phục vụ cho lợi ích cá nhân nên bị cáo đã tiếp nhận từ Hồ Văn T để điều khiển chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48D1-189.79 do Hoàng Văn L và đồng bọn trộm cắp được để mang đi tiêu thụ có giá trị còn lại là 28.800.000 đồng nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
Do đó, để đảm bảo việc giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra để đảm bảo được mục đích của hình phạt theo pháp luật, đồng thời đây còn là bài học cho những ai có ý định tiêu thụ tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác để trục lợi.
[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú. Do đó, cần áp dụng điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luât hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
Xét thấy bị cáo đều có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú trực tiếp giám sát, giáo dục là đủ, tạo điều kiện cho bị cáo trở thành công dân tốt, thể hiện sự khoan hồng của nhà nước và pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
[6] Về vật chứng của vụ án: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
[7] Về các Vấn đề khác có liên quan:
- Đối với hành vi phạm tội của Hoàng Văn L, Nguyễn Hồng Q, Phan Trọng H, Lê Văn Đ, Tạ Phú L đã được tách ra để xử lý bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
- Đối với Nguyễn Đình T, Tống Văn Đ, sau khi phạm tội đã bị khởi tố nhưng bỏ trốn, hiện nay cơ quan CSĐT công an huyện Đắk Mil đã tiến hành truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
- Đối với đối tượng tên Roll là người mua xe mô tô của Hồ Văn T, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh khi đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 323; điềm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Văn L 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Hồ Văn L về cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh nơi bị cáo cư trú và gia đình phối hợp giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên trả tự do cho bị cáo Hồ Văn L ngay tại phiên toà.
3. Về trách nhiệm dân sự: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
4. Về vật chứng của vụ án: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 27/9/2019, của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Hồ Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kề từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 52/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 52/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về