Bản án 52/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2019/HSST-QĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2019/HSST-QĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Đình X, sinh năm 1986; nơi sinh, nơi cư trú: Cụm 1, xã VH, huyện PT, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn B và bà Đặng Thị S; có vợ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội “Có mặt”.

2. Bùi Văn H, sinh năm 1990; nơi sinh, nơi cư trú: Cụm 4, xã VH, huyện PT, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Hưng Đ và bà Đặng Thị T; có vợ và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Đức Thắng và Luật sư Hồ Thị Trang – Là Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Lê và Đồng sự - Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội “Có mặt”.

- Bị hại: Ông Đào Văn Q, sinh năm 1966; trú tại: Cụm 3, xã VN, huyện PT, Thành phố Hà Nội “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 14/5/2017 bị cáo Bùi Đình X đi ô tô trên Đường bê tông liên xã VN – VH, khi đến đoạn đường thuộc địa phận cụm 7, xã VN, huyện PT, Thành phố Hà Nội (Đoạn đường đang thi công) thì gặp anh Đào Khương D đang ngồi uốn sắt xây dựng trên đường. Bùi Đình X dừng xe rồi thò đầu qua cửa bảo anh D để gọn cuộn sắt để cho ô tô đi qua, nhưng anh D không để gọn. X tiếp tục điều khiển xe ô tô đi qua thì bánh xe ô tô chèn lên cuộn sắt mà anh D đang làm, dẫn đến hai bên lời qua tiếng lại cãi chửi nhau. X xuống xe nhặt viên gạch vỡ ném về phía anh D nhưng không trúng, anh D liền nhặt viên gạch khác ném trả lại trúng đầu X gây chảy máu đầu. Thấy vậy, bà Hoàng Thị T đang làm gần đó đến băng bó vết thương cho X, ông Đào Văn Q (Bố đẻ anh D), ông Đào Trọng H (Bác ruột anh D), anh Đào Thành C (Con trai ông H) đang làm việc tại công trường chạy đến căn ngăn. Bùi Đình X được mọi người đưa đến Trạm y tế xã VH, huyện PT, Thành phố Hà Nội để sơ cứu, băng bó vết thương, còn anh D bỏ về nhà.

Sau khi sơ cứu xong, bị cáo Bùi Đình X rủ bị cáo Bùi Văn H đi xe máy đến để lấy xe ô tô. Khi đến nơi xảy ra sự việc, X và H đi vào quán nhà bà Bảy thì thấy ông Đào Văn Q (Bố đẻ anh D) đang ngồi uống nước cùng ông Bùi Văn B (Bố đẻ X) và ông Bùi Hưng Đ (Bố đẻ H). Bị cáo Bùi Đình X nghĩ rằng, lúc trước ông Q là người có tham gia đánh mình, nên X liền nói “Thằng đánh tao đây!” rồi lao vào dùng tay đấm vào đầu, mặt ông Q. Bị cáo Bùi Văn H cũng lao vào dùng tay đánh đấm ông Q. Thấy vậy, anh Nguyễn Công T1 , ông Doãn La T2 đều là cán bộ đang thi công tại công trường có mặt gần đó vào căn ngăn. H liền chạy đến góc nhà lấy một chiếc Quạt Cây quay lại vụt làm phần cánh quạt bằng nhựa trúng đỉnh đầu ông Q. Thấy vậy, Ông Đào Trọng H, anh Đào Thành C đang ở gần đó chạy đến, thì X bỏ ra ngoài. H tiếp tục chạy vào trong bếp lấy một con dao ra định để đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn, đẩy H ra ngoài. Thấy ông Q bị chảy nhiều máu ở phần mặt, mắt, anh Nguyễn Công T1 dìu ông Q ra ngoài để đưa đi cấp cứu; khi vừa ra đến cửa nhà thì X dùng chiếc xẻng vụt ông Q nhưng không trúng, được mọi người căn ngăn nên hai bên không đánh nhau nữa.

Hậu quả: Ông Q bị thương tích ở vùng mắt trái được đưa đến Bệnh viện mắt Trung ương để điều trị. Bùi Đình X bị thương ở vùng đầu được đưa đến Trạm y tế xã VH sơ cứu, sau đó đến Bệnh viện đa khoa huyện PT, Thành phố Hà Nội điều trị.

Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số: 3770/C54-TT1 ngày 14/8/2017 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Tỷ lệ thương tật của ông Đào Văn Q là 42%. Cơ chế hình thành thương tích tổn thương vùng mắt trái của ông Q là do vật tày gây nên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số: 5179/C54-TT1 ngày 19/10/2017 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Đình X tại thời điểm giám định là 4%. Cơ chế hình thành thương tích tổn thương vùng đầu của X là do vật tày gây nên.

Tại bản Cáo trạng số: 46/CT-VKS ngày 28 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo Bùi Đình X, Bùi Văn H về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Bùi Đình X từ 05 năm đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Bùi Văn H từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Về dân sự: Không đề nghị xem xét. Về vật chứng: Đã được giải quyết tại Bản án số: 11/2018/HSST ngày 13/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội. Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo tại phiên tòa thừa nhận nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng. Bị cáo X xin được giảm nhẹ hình phạt vì các con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Bị cáo H xin được giảm nhẹ hình phạt vì vợ bị cáo chuẩn bị sinh con, bố bị cáo là Thương binh nên bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Đại diện gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người làm chứng vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Bùi Văn H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo H được hưởng án treo, bởi vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định Tố tụng của các cơ quan tiến hành Tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành Tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng; Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 14/5/2017, bị cáo Bùi Đình X có cãi nhau và xô xát với anh Đào Khương D tại Đường bê tông liên xã VN – VH thuộc địa phận cụm 7, xã VN, huyện PT, Thành phố Hà Nội. Bị cáo Bùi Đình X cầm gạch ném anh D nhưng không trúng, anh D cầm gạch ném trả lại trúng đầu X gây thương tích chảy máu đầu, sau đó mọi người can ngăn đưa bị cáo X đi băng bó vết thương tại Trạm y tế xã VH, huyện PT, Thành phố Hà Nội. Sau khi sơ cứu xong, bị cáo Bùi Đình X rủ bị cáo Bùi Văn H đi xe máy đến lấy xe ô tô. Khi đến nơi xảy ra sự việc, X gặp ông Đào Văn Q (Là bố đẻ anh D) đang ngồi uống nước cùng ông Bùi Văn B và ông Bùi Hưng Đ tại nhà bà Bảy. X nghĩ rằng, lúc trước ông Q là người có tham gia đánh mình, nên X lao vào dùng tay đánh đấm vào đầu, mặt ông Q; H cũng lao vào dùng tay đánh đấm ông Q gây thương tích. Hậu quả là ông Q bị tổn thương vùng mắt trái, với tỷ lệ là 42%. Tuy nhiên giữa ông Q và các bị cáo không có mâu thuẫn gì với nhau, nhưng các bị cáo lại gây tổn hại sức khỏe cho ông Q với tỷ lệ tổn thương cơ thể như trên.

Vì vậy hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp có tính chất côn đồ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với việc bị cáo Bùi Đình X bị anh Đào Khương D dùng gạch ném trúng vùng đầu gây nên thương tích 4%. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, bị cáo X đã có đơn đề nghị rút lại yêu cầu giải quyết thương tích của mình, không yêu cầu đề nghị giải quyết gì nữa. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Đào Khương D về hành vi Cố ý gây thương tích.

[3]. Xét tính chất mức độ của vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, mặt khác còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra, nhằm mục đích cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo để trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Xét vai trò của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên xuất phát từ việc bị cáo Bùi Đình X có lời qua tiếng lại và xô xát với anh Đào Khương D, bị cáo X có bị thương tích do anh D gây nên. Sau đó đáng nhẽ ra bị cáo X phải báo Cơ quan công an để xử lý về việc anh D gây thương tích cho mình, nhưng bị cáo X không có đơn trình báo mà lại rủ bị cáo Bùi Văn H đi đến để lấy xe. Cũng do bột phát khi đến nơi để lấy xe ô tô thì bị cáo cho rằng ông Đào Văn Q có tham gia đánh mình nên đã gây thương tích cho ông Q, mặc dù ông Q không có mâu thuẫn đối với bị cáo. Do vậy bị cáo X phải chịu trách nhiệm chính trong việc gây thương tích cho ông Q.

Đối với bị cáo Bùi Văn H, sau khi bị cáo X nhờ chở đi lấy xe ô tô, bị cáo đồng ý, đây là việc bình thường bởi vì giữa hai bị cáo là anh en con Chú con Bác. Tuy nhiên sau khi gặp ông Đào Văn Q thì bị cáo X cho rằng ông Q có tham gia đánh bị cáo nên bị cáo X đánh ông Q. Đáng ra thì khi thấy sự việc như vậy, bị cáo H phải vào can ngăn và khuyên bảo xem sự việc đầu đuôi như thế nào, nhưng bị cáo không những không can ngăn mà còn tham gia vào việc gây thương tích cho ông Q nên bị cáo phải chịu chung về hậu quả việc ông Q bị thương tích. Tuy nhiên bị cáo có vai trò sau bị cáo X và chịu mức hình phạt nhẹ hơn bị cáo X.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Đã bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả. Người bị hại xin giảm nhẹ phần hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo H có bố đẻ là ông Bùi Hưng Đ là Thương binh trong kháng chiến Chống Mỹ cứu nước.

[7]. Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[8]. Với những phân tích như trên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bởi vậy cần áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[9]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho ông Đào Văn Q. Nay không ai có yêu cầu đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10]. Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu hồi được một chiếc quạt điện nhãn hiệu SunLux màu ghi, phần động cơ bị gãy rời ra khỏi vị trí ban đầu. Một con dao chuôi gỗ dài 36,5cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 23,5cm, bản rộng 5,5cm. Một chiếc Xẻng cán bằng Tre hình trụ đường kính 3,5cm, dài 70cm, lưỡi Xẻng bằng kim loại có kích thước 26 x 20cm. Đối với số vật chứng này, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2018/HSST ngày 13/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội đã xử lý và không bị Kháng nghị hủy, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích.

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 56; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Bùi Đình X 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Tổng hợp với 06 (Sáu) tháng tù về tội Đánh bạc tại Bản án số: 35/2018/HSST ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2018, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2018 đến ngày 09/02/2018.

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về