TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 52/2019/HS-PT NGÀY 20/05/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLPT-HS ngày 20 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Văn Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 68/2018/HS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Hải Dương.
- Bị cáo có kháng cáo: Vũ Văn Q, sinh năm 1992 tại thị xã L, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Khu N, phường T, thị xã L, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Vũ Văn P và bà Trần Thị M. Vợ là Bùi Thị O; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, vắng mặt.
Ngoài ra còn 01 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị và 04 bị cáo khác có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa, không bị kháng cáo, kháng nghị, không được triệu tập đến phiên tòa.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1983, anh Đỗ Hữu T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng: Anh Phan Huy Đ, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn C, xã G, huyện K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
3. Anh Trần Quốc H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
4. Anh Phạm Thanh S, sinh năm 1976. Địa chỉ: Số nhà 453, khu L, thị trấn K, huyện K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Ông Nguyễn Xuân H - Trưởng Công an xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962, địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có mâu thuẫn với anh Đỗ Hữu T, nên Nguyễn Văn L nảy sinh ý định trả thù hắt chất bẩn vào quán thịt trâu của anh T. Sáng ngày 18/11/2017, L nhờ anh Phan Huy Đ tìm người để thực hiện việc làm nói trên (khi nhờ anh Đ, L không nói cho anh Đ biết mục đích tìm người hắt chất bẩn để trả thù), anh Đ điện thoại cho anh Nguyễn Văn V và được anh V cho số điện thoại của Nguyễn Quang B. Chiều ngày 18/11/2017, anh Đ gọi điện thoại nói chuyện với B nhờ công việc (anh Đ chỉ nói là nhờ công việc, không nói làm việc gì), B đồng ý và bảo Nguyễn Thanh I, Nguyễn Văn Y, Vũ Văn Q sang khu vực Đ ở thôn X, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương gặp anh Đ, khi gặp, anh Đ đưa I, Y, Q đến quán bán thuốc tân dược của L ở thôn X, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương. Khi đến quán của L có L, T, I, Q, Y và anh Đ ngồi cùng bàn uống nước, L thuê Y, Q, I hắt chất bẩn vào quán thịt trâu của anh T; Y lấy điện thoại của I gọi cho B thông báo nội dung, B đồng ý. Q thỏa thuận mức tiền với L là 6.000.000 đồng, hắt chất bẩn trộn luyn với phân người trong hai ngày 19/11/2017; 21/11/2017. Khi thỏa thuận xong L bảo Nguyễn Đình T đi xe mô tô, chỉ quán bán thịt trâu của anh T, sau đó Q, Y, I về nhà L lấy 6.000.000 đồng, mang về nói với B việc L nhờ hắt chất bẩn vào quán thịt trâu của anh T, B đồng ý, nói chỉ làm một lần. B bảo Q chia tiền nhận của L, B cho Y, Q, I mỗi người 1.000.000 đồng, B sử dụng 3.000.000 đồng. Khoảng 6 giờ ngày 19/11/2017, Y nói với B đi làm cho L, B đồng ý, Y điện thoại cho Q nói có đi không, Q đồng ý, bảo Y đón. Y mượn xe mô tô nhãn hiệu Sirius của B (xe mô tô này của anh Vũ Văn E, sinh năm 1991 cho anh Vũ Văn R, sinh năm 1990 đều ở xã N, huyện G, tỉnh Hải Dương cầm cố cho B) đi đón Q, I. Sau đó Q điều khiển xe mô tô chở Y, I đến cửa hàng sửa xe máy của anh Phạm Thanh S hỏi mua dầu nhờn thải, được anh S cho hai lít dầu nhờn thải, một can nhựa loại năm lít. I cầm can nhựa, Q chở Y, I đến khu vực chợ G thuộc thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương, Y mua hai ca nhựa (loại hai lít) tại cửa hàng nhà ông Nguyễn Văn L, Q tiếp tục chở I, Y đến gần cổng chính của chợ G, Y, I xuống xe mỗi người tự đổ dầu thải trong can nhựa vào hai ca nhựa vừa mua được, bỏ lại can nhựa, mỗi người câm theo một một ca nhựa dầu thải ngồi lên xe mô tô, I ngồi giữa, Y ngồi sau, Q điều khiển xe mô tô đi đến quán bán thịt trâu của anh T, lúc này chị Nguyễn Thị L (vợ anh T) đang bán thịt trâu, Y, I hắt dầu nhờn thải từ ca nhựa vào thịt trâu treo trên giá, trên mặt quầy. Sau khi thực hiện hành vi nói trên, Q, I, Y điều khiển xe mô tô về thị trấn K, huyện K, tỉnh Hải Dương, trên đường đi về I điện thoại cho L báo đã làm xong việc.
Kết luận định giá tài sản số 33/KLĐG ngày 24/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G, tỉnh Hải Dương kết luận giá trị thiệt hại tài sản của anh T, chị L tại thời điểm ngày 19/11/2017 như sau, giá trị thiệt hại của 75 kg thịt trâu và 03 kg mỡ trâu là 15.929.000 đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 68/2018/HS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện G:
Áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Q: Xử phạt Vũ Văn Q 07 (Bảy) tháng tù về tội Hủy hoại tài sản, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với 05 bị cáo khác; trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 28/12/2018, các bị cáo L, T kháng cáo đề nghị được cải tạo tại địa phương; các bị cáo B, Q, I kháng cáo đề nghị được hưởng án treo .
Trước khi mở phiên tòa các bị cáo L, T, B, I có đơn xin rút kháng cáo, Tòa án đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo này.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo Q vắng mặt không có lý do.
- VKSND tỉnh phát biểu:
+ Từ khi thụ lý, trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm đến nay tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng.
+ Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của bị cáo Q, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo Q 07 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới. Vì vậy đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Q trong thời hạn quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Tòa án đã tống đạt quyết định xét xử, quyết định hoãn, giấy triệu tập cho bị cáo Q theo đúng địa chỉ nhưng bị cáo Q vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX căn cứ theo quy định của pháp luật, xét xử vắng mặt bị cáo Q.
Về nội dung:
[1] Căn cứ vào lời khai trong quá trình điều tra, tại cấp sơ thẩm cùng những chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do có mâu thuẫn với anh Đỗ Hữu T, ngày 18/11/2017 Nguyễn Văn L thuê Vũ Văn Q, Nguyễn Thanh I, Nguyễn Văn Y và Nguyễn Quang B hắt dầu nhờn đã qua sử dụng vào quán thịt trâu của anh Đỗ Hữu T, chị Nguyễn Thị L ở địa phận thôn C, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương với giá 6.000.000 đồng. Nguyễn Văn L bảo Nguyễn Đình T dẫn đường, chỉ quán bán thịt trâu của anh T, chị L cho I, Q, Y biết. Khoảng 7 giờ 00 phút, ngày 19/11/2017, Q, I, Y đã hắt hai ca nhựa chứa chất lỏng màu đen nâu (dầu nhờn đã qua sử dụng) vào quán thịt trâu của anh T, chị L, gây thiệt hại 75kg thịt trâu, 03 kg mỡ trâu đều bị dính chất lỏng màu đen nâu, không sử dụng được, tổng giá trị thiệt hại 15.929.000 đồng.
Hành vi đó của bị cáo Q đã bị TAND huyện G xét xử về tội Hủy hoại tài sản theo khoản 1 Điều 178 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Q không phải chịu tình tiết tăng nặng, được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo, xử phạt bị cáo 07 tháng tù là phù hợp.
Đánh giá tính chất, mức độ hành vi của bị cáo thì thấy: Chỉ vì mục đích kiếm tiền tiêu xài, các bị cáo trong đó có bị cáo Q đã có hành vi hủy hoại tài sản, gây thiệt hại cho người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên cần cách ly bị cáo Q ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt. Vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần y án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Do không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bị cáo Q phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn Q; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 68/2018/HS-ST ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Hải Dương.
Áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn Q.
Xử phạt bị cáo Vũ Văn Q 07 (Bảy) tháng tù về tội Hủy hoại tài sản, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 20/5/2019.
Bản án 52/2019/HS-PT ngày 20/05/2019 về tội hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 52/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về