Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 161/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 về ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O; nơi cư trú: Cụm X, thôn NT, xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H; nơi cư trú: Đội 5, thôn AD, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị O trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 16-11-2012. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng tính cách không hòa hợp, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xuyên xảy ra bất hòa. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị đã bỏ về gia đình ở thôn NT, xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ cuối năm 2014 đến nay, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị O xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn H có 01 con chung là Nguyễn Thiện K, sinh ngày 18-10-2014 hiện đang ở với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh H .

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn H đến Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng để giải quyết việc chị Nguyễn Thị O xin ly hôn nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do. Anh H không khai báo, không đưa ra bất cứ quan điểm nào về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ, việc xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, đã chấp hành yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án như việc giao nộp chứng cứ, tham gia phiên họp, phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành yêu cầu của Tòa án như không nộp bản tự khai, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa. Tuy nhiên việc bị đơn vi phạm quyền và nghĩa vụ tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn với anh Nguyễn Văn H. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thiện K, sinh ngày 18-10-2014 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chị O xin tự giải quyết với anh H nên không xem xét giải quyết. Về tài sản: Chị Nguyễn Thị O không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Văn H có hộ khẩu thường trú tại Thôn AD, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn, nuôi con chung giữa chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Văn H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị O có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh H vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Văn H.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Văn H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 16-11-2012 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng tính cách không hòa hợp, luôn bất đồng quan điểm sống nên đã xảy ra bất hòa. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị O đã bỏ về gia đình ở thôn NT, xã TH, huyện VB, thành phố Hải Phòng sinh sống từ năm 2014 đến nay. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị O nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H . Quá trình giải quyết vụ án, anh H đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, tuy nhiên anh H không khai báo, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa, không có quan điểm về việc chị O xin ly hôn. Điều này không chỉ thể hiện việc anh H đã tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật được bảo vệ mà còn thể hiện việc thiếu thiện trí trong việc hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Qua đó, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Văn H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu của chị Nguyễn Thị O xin ly hôn với anh Nguyễn Văn H phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Văn H có 01 con chung là Nguyễn Thiện K, sinh ngày 18-10-2014 hiện đang ở với chị O. Khi ly hôn chị O đề nghị Tòa án giao con chung cho chị nuôi dưỡng. Xét yêu cầu, đề nghị giải quyết việc nuôi con của chị O, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ vào điều kiện nuôi con của chị O và anh H thì thấy, chị O có nơi ở và thu nhập ổn định, mặt khác con chung của anh chị còn nhỏ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con cần chấp nhận yêu cầu của chị O , giao con chung cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị O tự giải quyết với anh H nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản: Chị Nguyễn Thị O không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, chị Nguyễn Thị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 146, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị O được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thiện K, sinh ngày 18-10- 2014 cho chị Nguyễn Thị O trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị O tự giải quyết với anh H nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị O không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị O đã nộp tạm ứng 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001469 ngày 12-6-2019. Chị Nguyễn Thị O đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về