Bản án 52/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất và hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 52/2019/DS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2019/TLST-DS ngày 13 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp về Hợp đồng cầm cố QSD đất và Hợp đồng dân sự vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2019/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

+ Ông Nguyễn Văn H-nđ1, sinh năm 1967 và vợ là bà Võ Thị C-nđ2, sinh năm 1967. Địa chỉ: ấp B A, xã TH, huyện An Minh, Kiên Giang. Ông H-nđ1 ủy quyền cho bà C-nđ2, bà C-nđ2 có mặt tại phiên tòa.

+ Ông Nguyễn Bảo T-nđ3, sinh năm 1957 và vợ là bà Nguyễn Kim K-nđ4, sinh năm 1962. Địa chỉ: ấp B A, xã TH, huyện An Minh, Kiên Giang. Ông T-nđ3 ủy quyền cho bà K-nđ4, bà K-nđ4 có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Ông Võ Văn T-bđ1 và vợ là bà Mai Thị L-bđ2. Địa chỉ: ấp B A, xã TH, huyện An Minh, Kiên Giang. Ông T-bđ1, bà L-bđ2 vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17-4-2019, các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà C- nđ2 (đồng thời là người đại diện cho ông H-nđ1) trình bày và yêu cầu như sau:

Vào ngày 21/7/2018 (nhằm ngày 09/6/2018al) vợ chồng bà C-nđ2 có nhận cố QSD đất của ông T-bđ1, bà L-bđ2 phần đất ruộng, không nói diện tích; giá cố đất là 50 chỉ vàng, loại vàng 24k 98%; thời hạn cố là 5 năm. Khi đó vợ chồng bà C-nđ2 đã giao đủ cho ông T-bđ1, bà L-bđ2 50 chỉ vàng 24k; bà C-nđ2 không nhận đất mà bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả tiền lãi mỗi năm là 25.000.000đ. Khi cố đất có làm Giấy tay cố đất, khi đó có con ông T-bđ1 là B-lq cùng ký tên. Tuy nhiên B-lq chỉ đi theo và cùng ký tên chứ vàng này là do vợ chồng ông T-bđ1 nhận và sử dụng. Sau khi cố bên ông T-bđ1 trả được tiền lãi 1 năm bằng 25.000.000đ.

Đối với con ông T-bđ1, bà L-bđ2 là B-lq và vợ, con là Nguyễn Thị C-lq, Võ Gia T-lq trước đây vợ chồng bà C-nđ2 có khởi kiện yêu cầu cùng trả nợ nhưng nay xác định không có sử dụng vàng cố đất nên không yêu cầu B-lq và vợ con B-lq (C- lq, T-lq) trả nợ.

Ông H-nđ1, bà C-nđ2 khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng cố đất với ông T-bđ1, bà L-bđ2, buộc ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại số vốn là 50 chỉ vàng 24k, loại 98%.

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11-4-2019, đơn bổ sung ngày 13-5-2019 và các lời khai tại Tòa án, Nguyên đơn bà K-nđ4 (đồng thời là người đại diện của ông T- nđ3) trình bày: Vào ngày 16/11/2015, vợ chồng bà K-nđ4 có nhận cố QSD đất của ông T-bđ1, bà L-bđ2; số đất cố là đất vườn có diện tích 3.025m2 tọa lạc ấp B B, xã TH, huyện An Minh; số tiền cố là 50.000.000đ; thời hạn cố là 3 năm. Bà K-nđ4 đã giao đủ cho ông T-bđ1, bà L-bđ2 đủ số tiền 50.000.000đ và ông T-bđ1, bà L-bđ2 giao bà K-nđ4 giữ Giấy chứng nhận QSD đất đối với phần đất nêu trên. Đồng thời, khi cố bên bà K-nđ4 không nhận đất mà cho bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lãi với giá 7.500.000đ/năm. Khi cố có lập hợp đồng cố đất.

Sau khi cố đất bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 có trả được tiền thuê đất (tiền lời) 2 năm bằng 15.000.000đ. Còn lại từ đó đến nay không trả nữa.

Ông T-nđ3, bà K-nđ4 khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cố đất với ông T- bđ1, bà L-bđ2 và buộc ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại số tiền cố đất 50.000.000đ.

Ngoài ra, vợ chồng ông T-bđ1, bà L-bđ2 còn nợ số tiền mượn để cân tôm là 4.200.000đ; mượn vào khoảng năm 2010. Việc vay mượn tiền này không có làm biên nhận; ông T-nđ3, bà K-nđ4 yêu cầu ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại số tiền 4.200.000đ.

Bị đơn ông T-bđ1, bà L-bđ2 vắng mặt và không có lời trình bày.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 17-9-2019, anh Võ Hữu B-lq (con ông T-bđ1, bà L-bđ2) trình bày: Anh B-lq có ký tên trong Hợp đồng cố đất của ông T-bđ1, bà L-bđ2 với ông H-nđ1, bà C-nđ2. Anh B-lq có biết việc ông T-bđ1, bà L-bđ2 cố đất cho ông H-nđ1, bà C-nđ2 và ông T-nđ3, bà K-nđ4. Hiện nay anh B-lq đang quản lý, sử dụng phần đất mà ông T-bđ1, bà L-bđ2 đã cố cho các người nêu trên. Anh B-lq không có ý kiến hay yêu cầu gì về việc tranh chấp nêu trên.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà C-nđ2 giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: hủy hợp đồng cố đất, ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại 50 chỉ vàng 24k, loại 98%.

Nguyên đơn bà K-nđ4: Yêu cầu hủy hợp đồng cố đất, ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại 50.000.000đ; ông T-nđ3, bà K-nđ4 trả lại Giấy chứng nhận QSD đất. Đối với yêu cầu trả tiền mượn, bà C-nđ2 rút lại yêu cầu.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:

- Về tuân theo pháp luật, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; đối với các đương sự thì từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định (vắng mặt khi tổ chức hòa giải và xét xử) của Bộ luật Tố tụng dân sự;

-Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộc yêu cầu của các nguyên đơn về việc hủy hợp đồng và xử lý hậu quả hợp đồng cầm cố QSD đất. Đình chỉ xét xử đối với việc rút yêu cầu trả tiền mượn của bà K-nđ4.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố QSD đất và buộc bị đơn trả lại vàng, tiền cố đất. Đồng thời bà K-nđ4 có yêu cầu bị đơn trả tiền mượn (vay không lãi) nên quan hệ pháp luật có tranh chấp giữa nguyên đơn với bị đơn là tranh chấp về Hợp đồng cầm cố QSD đất và vay tài sản.

[2] Theo các tài liệu: Địa chỉ ghi trong các hợp đồng cố đất và biên bản của Tòa án cho thấy ông T-bđ1, bà L-bđ2 có nơi cư trú cuối cùng là ấp B B, xã TH, huyện An Minh nên Tòa án nhân dân huyện An Minh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng (bằng các hình thức niêm yết công khai và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng) nhưng ông T-bđ1, bà L-bđ2 đều vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông T-bđ1, bà L-bđ2 vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt.

Đối với anh B-lq và vợ con anh B-lq (chị C-lq, T-lq), khi khởi kiện ông H- nđ1, bà C-nđ2 yêu cầu anh B-lq cùng trả nợ. Trong quá trình giải quyết, ông H-nđ1, bà C-nđ2 đã thay đổi yêu cầu, chỉ yêu cầu ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả vàng cố đất, không yêu cầu đối với anh B-lq. Do đó, việc giải quyết tranh chấp không liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của anh B-lq nên Tòa án không tiếp tục đưa anh B-lq và vợ con anh B-lq tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[3] Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu thu thập được đủ cơ sở xác định giữa ông H-nđ1, bà L-bđ2 có xác lập các hợp đồng cầm cố QSD đất với ông H-nđ1, bà C-nđ2 và với ông T-nđ3, bà K-nđ4, đối với phần đất tọa lạc ấp B B, xã TH, huyện An Minh. Cụ thể:

+ Ngày 21/7/2018 (nhằm ngày 09/6/2018al) vợ chồng bà C-nđ2, ông H-nđ1 có nhận cố QSD đất của ông T-bđ1, bà L-bđ2 phần đất ruộng, không nói diện tích; giá cố đất là 50 chỉ vàng, loại vàng 24k 98%; thời hạn cố là 5 năm; ông T-bđ1, bà L-bđ2 đã nhận đủ 50 chỉ vàng 24k; bà C-nđ2 không nhận đất mà bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả tiền lãi mỗi năm là 25.000.000đ. Sau khi cố bên ông T-bđ1 trả được tiền lãi 1 năm bằng 25.000.000đ.

+ Ngày 16/11/2015, vợ chồng bà K-nđ4 có nhận cố QSD đất của ông T-bđ1, bà L-bđ2; số đất cố là đất vườn có diện tích 3.025m2 tọa lạc ấp B B, xã TH, huyện An Minh; số tiền cố là 50.000.000đ; thời hạn cố là 3 năm. Bà K-nđ4 đã giao đủ cho ông T-bđ1, bà L-bđ2 đủ số tiền 50.000.000đ và ông T-bđ1, bà L-bđ2 giao bà K-nđ4 giữ Giấy chứng nhận QSD đất đối với phần đất nêu trên. Đồng thời, khi cố bên bà K-nđ4 không nhận đất mà cho bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lãi với giá 7.500.000đ/năm. Sau khi cố đất bên ông T-bđ1, bà L-bđ2 có trả được tiền thuê đất (tiền lời) 2 năm bằng 15.000.000đ.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn thấy rằng: giao dịch dân sự mà các bên giao kết là cầm cố QSD đất. Trong khi đó, đối chiếu với quy định tại Điều 179 Luật đất đai thì người sử dụng đất không có quyền cầm cố QSD đất. Do đó, giao dịch của các bên đã vi phạm quy định của pháp luật nên là hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự. Hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự với nguyên tắc các bên khôi phục lại hiện trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Các nguyên đơn chưa nhận QSD đất nên không phát sinh trách nhiệm giao trả đất; bị đơn đã nhận vàng, tiền cố đất nên phải hoàn trả lại. Do đó, yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận toàn bộ. HĐXX thống nhất tuyên bố Hợp đồng cầm cố QSD đất giữa ông T-bđ1, bà L-bđ2 với ông H-nđ1, bà C-nđ2 xác lập ngày 09-6- 2018al vô hiệu. Ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại cho ông H-nđ1, bà C-nđ2 50 chỉ vàng 24k, loại 98%. Tuyên bố Hợp đồng cầm cố QSD đất giữa ông T-bđ1, bà L-bđ2 với ông T-nđ3, bà K-nđ4 xác lập ngày 16-11-2015 vô hiệu. Ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả lại cho ông T-nđ3, bà K-nđ4 50.000.000đ; Ghi nhận việc ông T-nđ3, bà K-nđ4 trả lại cho ông T-bđ1, bà L-bđ2 bản chính Giấy chứng nhận QSD đất số AI 647601 do UBND huyện An Minh cấp cho ông Võ Văn T-bđ1 ngày 09-8-2007. Trường hợp, vợ chồng ông T-nđ3, bà K-nđ4 không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, thì ông T-bđ1, bà L-bđ2 có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này, để đăng ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

[5] Xét yêu cầu của ông T-nđ3, bà K-nđ4 về việc đôi ông T-bđ1, bà L-bđ2 trả số tiền mượn tổng số là 4.200.000đ thấy rằng: tại phiên tòa bà K-nđ4 đã rút lại yêu cầu này, việc rút yêu cầu là tự nguyện, không trái pháp luật nên HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như sau:

+ Bị đơn ông T-bđ1, bà L-bđ2 chịu án phí đối với yêu cầu hủy hợp đồng của các nguyên đơn được Tòa án chấp nhận là 300.000đ x 2 = 600.000đ. Đối với nghĩa vụ hoàn trả tài sản là thực hiện hậu quả của hợp đồng vô hiệu nên bị đơn không phải chịu án phí.

+ Nguyên đơn ông T-nđ3, bà K-nđ4 và nguyên đơn ông H-nđ1, bà C-nđ2 không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 91, 147, 228, khoản 2 Điều 244, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, 131 Bộ luật Dân sự; Điều 179 Luật Đất đai; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1- Tuyên bố hợp đồng cầm cố QSD đất giữa ông Võ Văn T-bđ1, bà Mai Thị L-bđ2 với ông Nguyễn Văn H-nđ1, bà Võ Thị C-nđ2 xác lập ngày 09-6-2018al là hợp đồng vô hiệu.

Tuyên bố hợp đồng cầm cố QSD đất giữa ông Võ Văn T-bđ1, bà Mai Thị L- bđ2 với ông Nguyễn Bảo T-nđ3, bà Nguyễn Kim K-nđ4 xác lập ngày 16-11-2015 là hợp đồng vô hiệu.

2- Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu:

- Buộc ông Võ Văn T-bđ1 và bà Mai Thị L-bđ2 có trách nhiệm hoàn trả như sau: 98%;

+ Trả cho ông Nguyễn Văn H-nđ1 và bà Võ Thị C-nđ2 50 chỉ vàng 24k, loại + Trả cho ông Nguyễn Bảo T-nđ3 và bà Nguyễn Kim K-nđ4 50.000.000đ.

- Ông T-nđ3, bà K-nđ4 trả lại cho ông T-bđ1, bà L-bđ2 bản chính Giấy chứng nhận QSD đất số AI 647601 do UBND huyện An Minh cấp cho ông Võ Văn T-bđ1 ngày 09-8-2007. Trường hợp, vợ chồng ông T-nđ3, bà K-nđ4 không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, thì ông T-bđ1, bà L-bđ2 có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này, để đăng ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

3- Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Nguyễn Bảo T-nđ3 và bà Nguyễn Kim K-nđ4 về việc yêu cầu ông Võ Văn T-bđ1 và bà Mai Thị L-bđ2 trả số tiền mượn là 4.200.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền) nếu người có nghĩa vụ thi hành về việc trả tiền không trả tiền thì hàng tháng còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bị đơn ông T-bđ1, bà L-bđ2 chịu tổng cộng 600.000đ.

Trả lại nguyên đơn ông T-nđ3, bà K-nđ4 số tiền tạm ứng án phí 1.355.000đ nộp tại biên lai thu số 0006373 ngày 29-5-2019.

Trả lại cho nguyên đơn ông H-nđ1, bà C-nđ2 số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ tại biên lai thu số 0006306 ngày 06-5-2019.

(Các biên lai của C-nđ2 cục thi hành án dân sự huyện An Minh)

5- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15-11-2019).

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất và hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:52/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về