Bản án 52/2019/DS-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 52/2019/DS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 83/2019/TLST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2019, về việc: tranh chấp hụi, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-DS, ngày 17 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm: 1983.

Cư trú tại: ấp 1, xã V, huyện C, tỉnh Long An.

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Phan Thị L, sinh năm: 1942.

Cư trú tại: ấp 1, xã V, huyện C, tỉnh Long An. Theo văn bản ủy quyền ngày 08/10/2019.

- Bị đơn:

1. Bà Võ Thị Kiều T, sinh năm: 1974.

2. Ông Nguyễn Kim H, sinh năm: 1967.

Cùng cư trú tại: ấp 1, xã V, huyện C, tỉnh Long An.

(Bà Lập, bà T có mặt; ông H có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 02/5/2019 của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều O và những lời khai trình tại tòa bà Phan Thị L là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Do mối quan hệ quen biết ở cùng ấp nên bà Nguyễn Thị Kiều O có tham gia chơi hụi với bà Võ Thị Kiều T là vợ của ông Nguyễn Kim H, do bà T là chủ hụi, cụ thể:

- Vào ngày 30/01/2017 âm lịch, bà O tham gia 01 dây hụi 1.000.000 đồng, gồm 25 hụi viên, hụi khui hàng tháng, bà O đã đóng 20 lần được 13.560.000 đồng, thì bà T tuyên bố vỡ hụi, sau khi trừ phần hụi chết bà T còn thiếu lại bà O số tiền 6.620.000 đồng tiền vốn đóng hụi.

- Phần hụi lúa bắt đầu khui hụi năm 2016, bà O tham gia 01 phần hụi 5.000.000 đồng/lần, gồm 18 hụi viên, hụi 04 tháng khui 01 lần, bà O đã đóng 6 lần được 15.530.000 đồng tiền vốn. Đến kỳ khui hụi thứ 7 bà T không khui hụi, sau đó tuyên bố vỡ hụi.

Như vậy tổng số tiền hụi bà T còn thiếu nợ vốn đóng hụi của bà O là 22.150.000 đồng.

Nay bà Nguyễn Thị Kiều O yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị Kiều T cùng chồng là ông Nguyễn Kim H phải liên đới trả tiền vốn nợ hụi là 22.150.000 đồng. Số tiền trên thanh toán một lần trong thời gian ngắn, không yêu cầu tính lãi.

- Bị đơn bà Võ Thị Kiều T trình bày: Năm 2016 bà có tổ chức chơi hụi, bà Nguyễn Thị Kiều O có tham gia chơi 1 phần hụi lúa 5.000.000 đồng, 4 tháng khui hụi 1 lần, bà O đã đóng được 6 lần được tổng cộng tiền vốn là 15.530.000 đồng. Hai phần hụi tháng 1.000.000 đồng/tháng, bắt đầu khui vào ngày 30/01/2017. Đến tháng 16 bà O hốt 1 phần hụi tháng, bà đã giao đủ tiền hốt hụi cho bà O nhưng bà O không đóng lại hụi chết. Bà O yêu cầu bà tự trừ phần hụi sống qua phần hụi chết, còn bao nhiêu trả lại cho bà O. Từ đó bà phải đóng choàng phần hụi chết cho bà O, phần hụi tháng bà còn nợ bà O là 6.620.000 đồng.

Như vậy phần hụi tháng và phần hụi lúa bà còn nợ bà O vốn đóng hụi là 22.150.000 đồng. Bà đồng ý trả số nợ trên cho bà O nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng, bắt đầu trả từ tháng 02/2020 cho đến khi xong nợ. Chồng bà là ông H không biết việc chơi hụi.

- Đồng bị đơn ông Nguyễn Kim H: Tại bản tự khai ngày 04/7/2019 ông trình bày ông không có chơi hụi với bất kỳ người nào nên ông không biết việc nợ hụi, hiện nay ông và bà T đã sống ly thân với nhau; ông H có đơn xin xét xử vắng mặt.

Sự việc đã được tổ chức hòa giải nhưng không thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Qua lời khai trình của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy giữa bà Nguyễn Thị Kiều O với bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kim H có phát sinh tranh chấp nợ hụi, việc tranh chấp và thẩm quyền giải quyết được quy định tại các Điều 26, 35 và 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết theo quy định. Đối với ông Nguyễn Kim H có đơn xin xét xử vắng mặt, nên áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Kim H.

[2] Bà Nguyễn Thị Kiều O là hụi viên và bà Võ Thị Kiều T là chủ hụi, khai trình thống nhất về số tiền vốn đóng hụi hiện nay bà T còn thiếu bà O tổng cộng hai phần hụi là 22.150.000 đồng, nhưng các đương sự không thống nhất về thời gian và cách thức thanh toán nợ. Bà O yêu cầu bà T và ông H phải liên đới thanh toán số nợ vốn 22.150.000 đồng làm một lần trong thời gian ngắn, không yêu cầu tính lãi. Bà T đồng ý trả số nợ trên, nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng, bắt đầu trả từ tháng 02/2020 cho đến khi xong nợ. Ông Nguyễn Kim H khai trình không biết việc bà T chơi hụi, hiện nay ông và bà T đã sống ly thân.

[3] Xét thấy bà Võ Thị Kiều T thừa nhận còn thiếu nợ vốn tiền hụi của và bà Nguyễn Thị Kiều O là 22.150.000 đồng, bà T đồng ý trả nợ nhưng xin trả dần, yêu cầu của bà T không được nguyên đơn đồng ý và không phù hợp với quy định của pháp luật nên không được chấp nhận. Ông Nguyễn Kim H là chồng của bà T khai trình ông không có chơi hụi và cũng không biết việc bà T tổ chức chơi hụi, hiện nay ông và bà T đã sống ly thân. Xét thấy việc bà T tổ chức chơi hụi với các hụi viên là trong thời kỳ hôn nhân của bà T và ông H, tại phiên hòa giải ngày 04/01/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Công, ông Nguyễn Kim H thống nhất với số nợ hụi của bà T và ông còn nợ các hụi viên, ông hẹn đến ngày 04/3/2019 sẽ khắc phục số tiền nợ cho các hụi viên nhưng không thực hiện. Do đó bà O yêu cầu bà T và ông H phải liên đới thanh toán nợ hụi cho bà O là phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét thấy yêu cầu thanh toán nợ hụi của bà Nguyễn Thị Kiều O phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015Nghị định số 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường, nên được xem xét chấp nhận. Cần buộc bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kim H phải liên đới hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Kiều O số tiền là 22.150.000 đồng nợ hụi khi án có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (22.150.000 đồng x 5% = 1.107.500 đồng) theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Nguyên đơn không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 26, 35, 39 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng các Điều 288, 471 Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị Định số 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường;

- Áp dụng Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp nợ hụi của bà Nguyễn Thị Kiều O đối với bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kim H.

Buộc bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kim H phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả nợ hụi cho bà Nguyễn Thị Kiều O số tiền 22.150.000 đồng (Hai mươi hai triệu, một trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Bà Võ Thị Kiều T và ông Nguyễn Kim H phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.107.500 đồng. Bà Nguyễn Thị Kiều O không phải chịu án phí, hoàn trả số tiền tạm ứng án phí bà O đã nộp là 1.250.000 đồng, theo biên lai thu số 0002049 ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/DS-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hụi

Số hiệu:52/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về