Bản án 52/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố (sau đây viết tắt là TP) Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 49/2018/TLST - HS ngày 30 tháng 3 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/QĐXXST - HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Văn M, sinh năm 1989 tại Hà Nam; nơi cư trú: xóm 6, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Hà Thị H có vợ: Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 1994; con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2018 chuyển tạm giam ngày 16/01/2018 đến nay; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Minh H, sinh năm 1996. Vắng mặt. Nơi cư trú: thôn B, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam.

*Người làm chứng:

Anh Lê Hồng P, sinh năm 1990. Vắng mặt. Nơi cư trú: thôn Đ, xã T, TP P, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 10/1/2018, Trần Văn M điều khiển xe mô tô BKS: 90B2 – 618.28 từ nhà lên TP P mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến cầu C xã Đ, TP P, M gặp một người thanh niên không quen biết, rủ M lên P mua ma túy cùng sử dụng, M đồng ý. Sau đó người thanh niên điều khiển xe mô tô của M chở M lên TP P. Khi đi đến đường L thuộc tổ dân phố M, phường L, TP P người thanh niên dừng xe nói với M đứng chờ rồi điều khiển xe mô tô của M đi đâu đó một lúc sau quay lại đưa cho M 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có ma túy. M không mở ra kiểm tra mà cất vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi lên xe mô tô để người thanh niên kia chở đi tìm chỗ sử dụng. Đi được một đoạn thì bị lực lượng phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Hà Nam yêu cầu kiểm tra. Người thanh niên dừng xe chạy thoát còn lại M tự giác giao nộp 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ, M khai nhận đó là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng công an đã đưa M về trụ sở lập biên bản theo quy định.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT 01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 xe mô tô BKS 90B2 – 618.28.

Tại bản kết luận giám định số 16/PC 54 – MT ngày 12/01/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “ Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT 01 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,218 gam loại Heroin”.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn M không thu giữ gì.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS-PL ngày 29 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Văn M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trần Văn M theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn M mức án từ 18 đến 24 tháng tù, không đề nghị hình phạt bổ sung là phạt tiền đồng thời đề xuất hướng xử lý các vật chứng hiện đang thu giữ.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Đánh giá về tội danh: tại phiên toà bị cáo M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ và cơ sở kết luận:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/01/2018, tại tổ dân phố M, phường L, TP P, tỉnh Hà Nam, Trần Văn M đang cất giấu trái phép 0,218 gam Heroin mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân TP Phủ Lý đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội có căn cứ pháp luật.

 [3] Đánh giá về hình phạt: Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn TP Phủ Lý. Là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Xét nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS. Cân nhắc tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và yếu tố nhân thân của bị cáo HĐXX sẽ ra bản án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo bằng một hình phạt tù, cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và có tác dụng phòng ngừa chung trong cộng đồng.

Xét mục đích phạm tội của bị cáo là tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng không có mục đích trục lợi, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

[4] Xử lý vật chứng:

Đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của Trần Văn M cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án vì vậy cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 90B2 – 618. 28 đã thu giữ là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị M Huệ, chị Huệ cho M mượn chiếc xe mô tô nhưng không biết M dùng chiếc xe trên để đi mua ma túy sử dụng nên cần trả lại cho chị Nguyễn Thị M Huệ.

[5] Đánh giá các tình tiết khác của vụ án: Về nguồn gốc số ma túy thu giữ M khai của người thanh niên khoảng 30 tuổi là bạn nghiện mới quen biết M không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể gặp ở khu vực cầu C, xã Đ, TP P. Cơ quan điều tra Công an TP Phủ Lý đã phối hợp cùng công an xã Đ tiến hành xác M nhưng không xác định được nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

 [6] Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249 ; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Áp dụng Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 329; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [1] Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

 [2] Xử phạt Trần Văn M 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2018.

 [3] Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy được niêm phong số 16/PC 54 – MT: “Mẫu vật hoàn trả QT 01” của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam. Trả lại Trần Văn M 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen, số IMEI: 355481219627737.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị Minh H 01 xe môt tô BKS 90B2 – 618.28 màu sơn trắng, số máy JA 39E – 0308802, số khung: RLHJA390XHY308750.  (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/3/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự TP Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Văn M phải nộp 200.000đ.

 Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo tỏng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về