Bản án 52/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2018/TLST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N (tên gọi khác: không), sinh năm 1991, tại Thanh Hóa; nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: Thôn 5, xã Q, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H và bà: Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/01/2018 đến ngày 28/01/2018 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: + Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1971; Trú tại: Thôn C, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

+ Anh Vũ Văn K, sinh năm 1967; Trú tại: Phố Đ, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1994; Trú tại: Thôn C, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:

Nguyễn Văn N là người nghiện ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 22/01/2018 Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 35B2 – 309.83 đi từ quán cắt tóc Sơn Nguyễn đến khu vực bờ đê sông đáy thuộc địa phận thôn D, xã B, huyện Y, tỉnh Nam Định, tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây N gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 300.000đồng được 01 gói ma túy, gói bên ngoài bằng túi ni lon mầu trắng, bên trong là chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, N cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về thành phố Ninh Bình. Khoảng 13h 30 phút cùng ngày, khi về đến đường Lê Đại Hành, phố Thúy Sơn, phường Thanh Bình, thành phố Ninh Bình thì gặp tổ công tác Công an phường Ninh Phong phối hợp với Công an phường Thanh Bình đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra hành chính. Ninh đã tự giác lấy trong túi quần trước bên trái 01 gói nhỏ gói ngoài bằng túi ni lon màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là ma túy đá, đồng thời xin tự thú về hành vi vi phạm của mình. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra còn thu giữ của Ninh 01 xe mô tô BKS 35B2-309.83 rồi đưa Ninh cùng tang vật về trụ sở Công an phường Ninh Phong làm việc. Tại Công an phường Ninh Phong, Ninh viết đơn xin tự thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan Công an tiến hành cân xác định trọng lượng chất tinh thể màu trắng trong gói nhỏ thu giữ của Nguyễn Văn N có trọng lượng là 0,2750gam, ký hiệu M1 gửi giám định xác định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 229/KLGĐ- PC54-MT ngày 25/01/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình đã kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 gửi giám định có k hối lượng 0,2750gam là chất ma túy, loại MethampheTine” (MethampheTine là chất ma túy thuộc bảng danh mục II có số thứ tự 67; Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ).

Số ma túy còn lại cùng giấy gói ban đầu thu giữ của Nguyễn Văn N Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình hoàn trả lại cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình.

Tại bản cáo trạng số 57/CT- VKS ngày 19 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn N ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi bổ sung gì và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng: điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 22/01/2018; Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn N trong một phong bì niêm phong; Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, tang vật chứng thu giữ là 01 gói ma túy, biên bản cân xác định trọng lượng, bản kết luận giám định số 29/KLGĐ- PC54-MT ngày 25/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình. Từ những chứng cứ nêu trên đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22/01/2018 tại đường Lê Đại Hành, phố Thúy Sơn, phường Thanh Bình, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, bị cáo Nguyễn Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép0,2750 gam ma túy, nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

 [2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, đến sức khoẻ của con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác… Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thoả mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng như có tác dụng giáo dục bị cáo thì việc truy tố, đưa ra xét xử buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết, cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo trong vụ án:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã tự giác lấy gói ma túy trong túi quần ra giao nộp cho cơ quan Công an vì vậy bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

 [4] Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động, cải tạo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [6] Việc xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra cơ quan Công an có thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy có khối lượng 0,2750 gam, sau khi lấy mẫu đi giám định (không hoàn trả mẫu vật), số còn lại trong một phong bì được niêm phong. Xét thấy vật chứng trên là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Về nguồn gốc ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết, ở khu vực bờ đê thôn D, xã B, huyện Y, tỉnh Nam Định. Vì vậy không có đủ cơ sở để điều tra xác minh làm rõ.

- Đối với người lái xe ôm chỉ đường cho bị cáo Ninh đi mua ma túy, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ, vì vậy không đủ cơ sở để điều tra xác minh làm rõ.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 35B2- 309.83 bị cáo Nguyễn Văn N dùng làm phương tiện đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản của ông Nguyễn Văn T, trú tại thôn Cổ Loan Hạ, xã N, thành phố Ninh Bình, cho con trai là Nguyễn Văn Sơn mượn làm phương tiện đi lại. Ngày 22/01/2018 anh Sơn cho Ninh mượn nhưng không biết bị cáo Ninh sử dụng xe đi mua ma túy. Do vậy ngày 02/4/2018 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Ninh Bình ra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn T là chủ sở hữu, đúng quy định của pháp luật. Ông T đã nhận lại chiếc xe và không có đề nghị gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.

 [7] Về án phí:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo mức án phí quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [8] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

 [9] Hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2. Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/01/2018.

4. Việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn N trong một phong bì niêm phong. (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15ngày, kể từ ngày tuyên án 25/5/2018.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về