Bản án 52/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B,  TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 15/5/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 59/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn C, sinh năm 1984; tên gọi khác: Không; nơi đăng ký

HKTT và chỗ ở: thôn H, xã X huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo : Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; vợ, con: Chưa có; tiền án: Bản án số 59 ngày 28/6/2013 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 13/10/2009, Công an xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (chấp hành xong ngày 13/10/2009); Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Hà Văn Q, sinh năm 1977 (Có mặt)

Địa chỉ: thôn V, xã X, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn H, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

* Người làm chứng:

- Ông Đoàn Trọng H, sinh năm 1950 (Vắng mặt)

Địa chỉ: số nhà A, đường N, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Chu Đình T, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn C, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 25 phút ngày 15/01/2018, tại trước cửa số nhà A, đường N, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác Công an phường H - thành phố B bắt quả tang Hà Văn C, sinh năm 1984, trú quán: thôn H, xã X huyện L, tỉnh Bắc Giang, có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vật chứng thu giữ:

+ 02 (hai) túi ni lon màu trắng, một đầu của mỗi túi có rãnh khoá bằng nhựa, viền màu đỏ bên trong đựng chất cục bột màu trắng, thu tại vị trí dưới nền đất nơi Cương đang đứng, được cho vào một phong bì thư dán kín và lập biên bản niêm phong tại chỗ.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius mang biển kiểm soát 98L5-7988 có số khung 510436, số máy 510490; 01 điện thoại di động iphone 4 màu trắng và 450.000đ.

Sau đó, Tổ công tác đưa người cùng vật chứng bàn giao cho Công an thành phố B giải quyết.

Kết luận giám định số 83/KL-PC54 ngày 17/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Trong 01 phong bì thư đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 02 túi ni lon màu trắng, một đầu của mỗi túi có rãnh khoá bằng nhựa, viền màu đỏ đều là chất ma tuý Heroine có tổng khối lượng: 1,301gam.

Quá trình giải quyết vụ án, Hà Văn C khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 9 giờ 30 ngày 15/01/2018, Cương từ nhà đi xe mô tô mang biển kiểm soát 98L-7988 một mình đến thành phố B, mục đích mua ma tuý sử dụng. Cương đến khu vực ngách 24, ngõ 175, ngách 24, đường Nguyễn Văn Cừ, phường H, thành phố B thì gặp một người đàn ông không quen biết, qua trao đổi Cương mua được của người đàn ông này 02 túi ni lông màu trắng bên trong đựng m a tuý heroine với giá 1.000.000 đồng. Cương cầm 02 túi ma tuý vừa mua được ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về, khi đi được khoảng 30m, thì bị Công an phường H - thành phố B kiểm soát, do sợ nên Cương thả gói ma tuý vừa mua được từ tay trái xuống đất ngay cạnh chân trái nơi Cương đứng nhưng vẫn bị phát hiện thu giữ niêm phong tại chỗ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Người thanh niên bán ma túy cho Cương do Cương khai không biết tên, tuổi và địa chỉ ở đâu nên Cơ quan điều tra không xác định được là ai để xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 98L5-7988 có số khung 510436, số máy 510490 bị tạm giữ. Quá trình điều tra, Cương khai mượn của anh Hà Văn Q, sinh năm 1977, nơi cứ trú thôn V, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Anh Q khai nhận có mua chiếc xe mô tô trên của một người không quen biết, giấy tờ hiện tại anh đã làm mất. Cơ quan điều tra đã tra cứu tại phòng cảnh sát giao thông chiếc xe có số khung, số máy nêu trên mang biển kiểm soát 98K4-4574, chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn H, nơi cứ trú: thôn H, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang, anh Hoàng khai nhận anh đã bán chiếc xe cho một người không quen biết cách đây hai năm. Cơ quan Điều tra đã tra cứu tại phòng cảnh sát giao thông biển kiểm sát 98L5-7988 có chủ xe là Nguyễn Văn Hảo, địa chỉ: xã Xuân Hương, huyện L, tỉnh L, tiến hành xác minh tại Công an xã Xuân Hương, huyện L không xác định được anh Hảo. Vây, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách vật chứng là chiếc biển kiểm sát 98L5-7988 để xử lý.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) phong bì được niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius có số khung 510436, số máy 510490; 01 điện thoại di động iphone 4 màu trắng và 450.000đ.

Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 06/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Hà Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất m a tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 - Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Hà Văn C khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 06/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B nêu và trình bày: Bị cáo nhận thức hành vi của mình ngày 15/01/2018 là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Hà Văn Q trình bày: Anh là anh họ của Hà Văn C. Ngày 15/01/2018, anh có cho Cương mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn đen – đỏ, biển kiểm soát xe anh không nhớ rõ. Đăng ký của chiếc xe anh đã làm mất tuy nhiên anh chỉ nhớ đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn H. Chiếc xe này anh mua của một người đàn ông không quen biết, khi mua bán hai bên không viết giấy tờ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên toà nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau : Năm 2011, anh có mua một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen – đỏ, biển kiểm soát 98K4-4574, đăng ký xe mang tên anh – Nguyễn Văn H. Anh sử dụng chiếc xe trên đến năm 2016 thì bán cho một người không rõ địa chỉ. Khi mua bán hai bên không viết giấy tờ gì.

Người làm chứng là ông Đoàn Trọng H và anh Chu Đình T vắng mặt tại phiên toà nhưng đều có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Khoảng 10 giờ 25 phút ngày 15/01/2018, tại số nhà A, đường Nguyễn Văn Cừ, phường H, thành phố B, ông và anh được chứng kiến việc lực lượng công an kiểm soát bắt quả tang một nam thanh niên sau này được biết tên là Hà Văn C, sinh năm 1984, trú tại: thôn H, xã X huyện L, tỉnh Bắc Giang có hành vi tàng trữ trái phép ma tuý. Tại đây lực lượng công an thu giữ 02 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khoá bằng nhựa và đường viền màu đỏ bên trọng đựng chất cục bột màu trắng ở dưới nền đất chỗ Cương đứng. Sau đó lực lượng công an niêm phong vật chứng và đưa Cương, ông và anh cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Hà Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

2, Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật hình sự 2015.

- Xử phạt bị cáo Hà Văn C từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/01/2018.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự 2015; điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định;

- Trả lại anh Hà Văn Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius có số khung 510436, số máy 510490;

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động iphone 4 màu trắng và 450.000đ.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và kết quả giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 25 phút ngày 15/01/2018, tại trước cửa số nhà 03, ngách 24, ngõ 175, đường Nguyễn Văn Cừ, phường H, thành phố B, tổ công tác Công an phường H - thành phố B bắt quả tang đối tượng Hà Văn C, sinh năm 1984, trú quán: thôn H, xã X huyện L, tỉnh Bắc Giang, có hành vi tàng trữ trái phép 1,301 gam chất ma túy Hêrôin với mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 06/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo điểm, khoản và điều luật như là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Về hình phạt:

 [3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Việc tàng trữ các chất ma tuý của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác và là con đường lây lan nhiều loại bệnh xã hội. Do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[3.2] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu: Bị cáo đã từng bị Toà án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” năm 2013; năm 2009, bị cáo bị Công an xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật, khó giáo dục.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trước cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có 01 tiền án năm 2013 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” chưa được xoá án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 - Bộ luật hình sự 2015.

 [3.5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện; căn cứ nhân thân và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục bị cáo thành người công dân biết tuân thủ pháp luật.

[3.6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 - Bộ luật hình sự 2015, việc áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là cần thiết để tăng tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, xét bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền để bị cáo yên tâm cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Về vật chứng của vụ án:

 [4.1] 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định bên trong chứa chất Hêrôin là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 – Bộ luật hình sự 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[4.2] 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius có số khung 510436, số máy

510490 là tài sản thuộc sở hữu của anh Hà Văn Q, khi cho mượn Anh Q không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho Anh Q; 01 điện thoại di động di động iphone 4 màu trắng và 450.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 – Bộ luật hình sự 2015 và điểm b khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

 [5] Các vấn đề khác:

 [5.1] Người thanh niên bán ma túy cho Cương do Cương khai không biết tên, tuổi và địa chỉ ở đâu nên Cơ quan điều tra không xác định được là ai để xử lý là phù hợp.

 [5.2] Đối với chiếc biển kiểm sát 98L5-7988, Cơ quan điều tra đã tra cứu tại phòng cảnh sát giao thông là của chủ xe Nguyễn Văn H, địa chỉ: xã X, huyện L, tỉnh L, tiến hành xác minh tại Công an xã X, huyện L không xác định được anh Hảo. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách vật chứng là chiếc biển kiểm sát 98L5-7988 để xử lý là phù hợp.

[5.3] Về án phí: bị cáo Hà Văn C thuộc hộ cận nghèo (có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú) nên bị cáo thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố bị cáo Hà Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2, Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn C 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/01/2018.

3, Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Trả lại anh Hà Văn Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius có số khung 510436, số máy 510490;

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động di động iphone 4 màu trắng và 450.000 đồng.

(Vật chứng theo Quyết định chuyển vật chứng số 56/QĐ-VKS ngày 06/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và Biên bản giao nhận tài sản tạm giữ ngày 11/4/2018). 4, Về án phí, quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về