Bản án 52/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 52/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2017/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Cát Đ, sinh ngày 18/5/1999; Địa chỉ: Khu 5, xã T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; con ông Nguyễn Cát T và con bà Trương Thị D; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 18/5/2017 đến nay, có mặt.

* Người làm chứng:

Bà Trương Thị D, sinh năm 1978 (Có mặt)

Địa chỉ: Khu 5, xã T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc.

Anh Nguyễn Danh M, sinh năm 1994 (Vắng mặt). Trú tại: Thôn B, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội. Anh Trần Đông C, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Trú tại: Khu 3, xã T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 18 tháng 5 năm 2017, Nguyễn Cát Đ đang chơi điện tử tại quán internet của anh Trần Đông C tại thôn Đ, Khu 3, xã T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc thì Đ nhận được điện thoại của đối tượng tự khai Nguyễn Văn P sinh năm 1996, ở xã T, huyện M, thành phố Hà Nội (là bạn mới quen) hỏi mua ma túy với giá 400.000đ. Đ đồng ý bán ma túy cho P, nên hẹn P đến sân bóng ở thôn Đ thuộc khu 3, xã T, thị xã P. Khoảng 3 phút sau, P đi bộ một mình đến điểm hẹn, Đ gọi P đến trước cửa quán Internet của nhà anh C mục đích để bán ma túy cho P. Tại đây P đưa cho Đ số tiền 400.000đ để mua ma túy, Đ cầm tiền rồi đưa lại cho P 01 ống nhựa màu cam bên trong chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, P cầm ống ma túy Đ đưa cất vào túi quần bên trái thì bị Công an bắt quả tang.

Về nguồn gốc ma túy, Cơ quan điều tra đã làm rõ sáng ngày 18/5/2017, Đ mua 01 túi ma túy của một người đàn ông tự xưng tên H không biết tuổi, địa chỉ tại khu vực bến xe buýt ở xã K, huyện Đ, thành phố Hà Nội với giá 300.000đ. Sau đó Đ mang về quán internet nhà anh C dùng bật lửa chia túi ma túy đó làm 02 phần, 01 phần Đ cho vào 01 đoạn ống nhựa màu cam sau đó bán cho P; còn 01 túi ma túy còn lại Đ cất trong túi quần mục đích để sử dụng và ai mua thì bán.

* Vật chứng thu giữ gồm:

Thu giữ trong túi quần của người tự khai tên là P: 01 ống nhựa màu cam bên trong chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, được niêm phong trong phòng bì ký hiệu A1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu xám đã cũ P dùng để liên lạc mua ma túy của Đ.

Thu giữ trong túi quần người Đ: 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2, số tiền 400.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 màu xám xanh đã cũ Đ dùng để liên lạc bán ma túy cho P.

Ngày 19/5/2017, Cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Cát Đ nhưng không thu giữ tài sản, vật chứng gì.

Tại bản kết luận giám định số: 471/KLGĐ ngày 22/5/2017, Phòng kỹ thuật hình sự công an Tỉnh Vĩnh Phúc giám định và kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu kí hiệu A1 gửi đến giám định có khối lượng (trọng lượng) là 0.0610 gam có Methamphetamine. Khối lượng (trọng lượng) Methamphetamine có trong 0,0610 gam mẫu là 0,0431 gam.

Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu kí hiệu A2 gửi đến giám định có Khối lượng (trọng lượng) là 0.4249 gam,có  Methamphetamine. Khối lượng (trọng lượng) Methamphetamine có trong 0,4249 gam mẫu là 0,1530 gam.

Mẫu vật hoàn lại sau giám định A1 = 0,0000g và A2 = 0,3012 gam mẫu và toàn bộ bao gói”.

Đối với 01 bật lửa ga màu đỏ sau khi Đ dùng để chia ma túy, Đ vứt lại trong nhà vệ sinh nhà anh Trần Đông C, Cơ quan điều tra tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được.

Đối với người đàn ông tên H có địa chỉ tại khu vực bến xe buýt thôn B, xã K, huyện Đ, Quá trình điều tra chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Đối với người đàn ông mua ma túy của Đ tự khai tên là Nguyễn Văn P, cơ quan điều tra đã xác minh tại xã T, huyện M, thành phố Hà Nội không xác định được người có tên, tuổi, địa chỉ như đã nêu trên, Cơ quan điều tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Cát Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 58/KSĐT– MT ngày 28/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên đã truy tố bị cáo Nguyễn Cát Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Cát Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 18 tháng 5 năm 2017. Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề xuất về việc xử lý vật chứng của vụ án như Bản cáo trạng.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của đối tượng mua ma túy của Đ, những người làm chứng và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 18 tháng 5 năm 2017 trước cửa quán internet của anh Trần Đông C ở thôn Đ, Khu 3, xã T, thị xã P, Nguyễn Cát Đ đã có hành vi bán trái phép ma túy có trọng lượng Methamphetamine là 0,0431 gam cho đối tượng tự khai là Nguyễn Văn P với giá 400.000đ thì bị Công an bắt quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của Đ 01 túi ni lon có trọng lượng Methamphetamine là 0,1530 gam mục đích bị cáo sử dụng và ai mua thì bán. Tổng trọng lượng ma túy Đ bán và tàng trữ để bán là: 0,1961 gam Methamphetamine.

Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên đã truy tố bị cáo Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật; cụ thể khoản 1 Điều 194 quy định như sau:

Người nào… mua bán trái phép… chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây bất bình trong nhân dân và gây ảnh hưởng tình hình trị an địa phương. Do vậy cần phải đưa ra để xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Xét nhân thân bị cáo Đ thì thấy: Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình lao động, bản thân được gia đình nuôi ăn học hết lớp 10 thì ở nhà, bị cáo nghiện ma túy từ năm 2016. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa gia đình bị cáo Đ chỉ xuất trình được giấy khai sinh của bị cáo sinh ngày 18/5/1999, theo bố mẹ bị cáo cho biết bị cáo Đ sinh tại Trạm y tế xã T vào lúc 21h ngày 18/5/1999, qua xác minh tại Trạm y tế xã Tiền Châu cho biết những trường hợp sinh trước năm 2009 thì sổ sách không còn lưu trữ nữa. Trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào khoảng 13 giờ 50 phút ngày 18/5/2017; căn cứ vào Điều 146 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hạn, thời điểm tính thời hạn và Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân dân Tối Cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ có hướng dẫn cách tính ngày, tháng năm sinh của bị can, bị cáo chưa thành niên thì chỉ hướng dẫn đến cách tính ngày sinh, tháng sinh, quý, năm còn không hướng dẫn cách tính giờ sinh của bị can và bị cáo.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, nên ở vụ án này Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết là người chưa thành niên phạm tội cho bị cáo quy định tại Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật hình sự. Trong vụ án này bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Do vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, xong cần phải áp dụng hình phạt tù giam mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Đ bán ma túy nhằm mục đích thu lợi bất chính. Nhưng qua xác minh và làm rõ tại phiên tòa bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập thường xuyên và sống phụ thuộc gia đình. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp.

Đối với người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể bán ma túy cho Đ tại khu vực bến xe buýt thôn B, xã K, huyện Đ và người đàn ông mua ma túy của Đ tự khai là Nguyễn Văn P, cơ quan điều tra chưa xác định được cần tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp.

* Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự để:

Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 02 Điện thoại di dộng mà Công an thu giữ, vì có liên quan đến hành vi phạm tội.

Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật sau giám định hoàn lại cùng toàn bộ bao gói. Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ là tiền bán ma túy mà có. Về án phí:  Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Cát Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 69 và khoản 1 Điều 74 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Nguyễn Cát Đ 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 18 tháng 5 năm 2017.

Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy A1 = 0,0000gam  và A2 = 0,3012 gam mẫu và toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn lại.

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Tịch thu, bán sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200 màu xám đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 màu xám xanh đã cũ.

(Vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phúc Yên với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phúc Yên lập ngày 04 tháng 8 năm 2017).

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc Nguyễn Cát Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về