Bản án 513/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 513/2020/HS-ST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 543/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 541/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn L, sinh năm 1976 tại tỉnh Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 12, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Văn T, sinh năm 1948; Con bà: Đỗ Thị D, sinh năm 1949; Vợ: Trần Thị M, sinh năm 1976; Có con: 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2003 (đã chết); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 50/2008/HSST ngày 27/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Hà Văn L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/11/2008, chấp hành xong nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày ngày 18/12/2012.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Mai L, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ 11, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Người chứng kiến: Ông Đoàn Văn P, sinh năm 1955; Địa chỉ: Tổ 4, phường H, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 01/8/2020, Công an phường Hương Sơn phối hợp cùng đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại đường Phố Hương thuộc khu vực tổ 11, phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên đã phát hiện 01 người nam giới điều khiển xe mô tô Honda Wave BKS 20B2-026.16 có hiểu hiện nghi liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì người này khai tên Hà Văn L và tự giác lấy trong cốp xe mô tô 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Luyến khai đó là ma túy loại heroine Luyến mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong các vật chứng theo quy định.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân kiểm tra khối lượng, và lấy mẫu gửi giám định số chất bột màu trắng nghi là ma túy thu giữ của Luyến có khối lượng 0,389 gam. Tại bản kết luận giám định số 1007/KL-KTHS ngày 08/8/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu L gửi giám định là chất ma túy, loại heroine, có khối lượng 0,389 gam.

Tại cơ quan điều tra Hà Văn L khai nhận: Khoảng 16 giờ 10 phút Luyến điều khiển xe mô tô BKS 20B2-026.16 đi từ nhà đến ngã ba trạm quá tải thuộc phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên để mua ma túy sử dụng. Luyến gặp và mua của 01 người nam giới không quen biết 200.000 đồng được 01 gói ma túy loại heroine bọc bên ngoài bằng giấy bạc màu trắng. Sau khi mua được gói ma túy, Luyến cất vào trong cốp xe mô tô rồi điều khiển xe đến hiệu thuốc trên đường Phố Hương để mua xi lanh và nước cất thì bị kiểm tra. Luyến đã tự giác giao nộp gói ma túy cho tổ công tác.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu L bên trong chứa heroine và vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định. 01 xe mô tô Honda Wave BKS 20B2- 026.16 quá trình điều tra xác định là xe của anh Trần Mai Lâm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Lâm quản lý sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 538/CT-VKSTPTN ngày 30/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Hà Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn toàn bộ diễn biến, hành vi, mục đích phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Quá trình luận tội, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; xử phạt bị cáo Hà Văn L từ 30 đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng, thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, không oan , xin Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức án thấp nhất cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[2] Về hành vi phạm tội: Trên cơ sở đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người liên quan, người chứng kiến, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 16 giờ 20 phút ngày 01/8/2020 tại đoạn đường Phố Hương, thuộc tổ 11, phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên, Hà Văn L có hành vi tàng trữ 0,389 gam ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Xét hành vi, động cơ, mục đích phạm tội, khối lượng chất ma túy tàng trữ trái phép, thì hành vi của bị cáo Hà Văn L đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định. “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

a....., b......

c, Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Hà Văn L về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, làm mất trật tự trị an tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn liên quan đến ma túy, gây bức xúc trong nhân dân. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không có đồng phạm khác.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS.

Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhiều năm, đã từng bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản. Những yếu tố trên Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt phù hợp để giáo dục bị cáo nói riêng, góp phần ngăn ngừa tội phạm về ma túy nói chung. Xem xét mức hình phạt từ 30 đến 36 tháng tù đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định khoản 5 Điều 249 BLHS, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sụng là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu L bên trong chứa heroine và vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định. Xe mô tô Honda Wave BKS 20B2-026.16 quá trình điều tra xác định là xe của anh Trần Mai Lâm, ngày 01/8/2020 anh Lâm cho bị cáo mượn xe để đi lại nhưng không biết việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Lâm quản lý sử dụng là có cơ sở.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này Hà Văn L khai mua của 01 người đàn ông không quen biết, ở khu vực ngã 3 quá tải thuộc phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên.

Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên bố bị cáo Hà Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS;

1.Xử phạt: Hà Văn L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 01/8/2020.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu L. Mặt sau phong bì có chữ ký của ông Nguyễn Thành Trung – Cán bộ phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và ông Ma Triệu Vũ – Cán bộ Công an thành phố Thái Nguyên, cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên (Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 90 ngày 01/11/2020 giữa Chi cục Thi hành dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an TP Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hà Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 513/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:513/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về