Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 54/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2020 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2020/QĐST ngày 25 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1992; Địa chỉ: Xóm A (Nay xóm B), xã N , huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đề nghị vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh H, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT trước khi xuất cảnh: Xóm A (Nay xóm B), xã N , huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 24/3/2020, lời khai chị Nguyễn Thị X trình bày: Chị X và anh Nguyễn Minh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký ngày 16/7/2014 tại Ủy ban nhân dân xã N , huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai người chung sống hạnh phúc với nhau đến tháng 9/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp nên thường xung đột lẫn nhau. Sau đó anh Hoàng làm thủ tục xuất khẩu sang Nhật Bản lao động và cắt đứt mọi liên lạc, hai người không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị X yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn anh Nguyễn Minh H để giải phóng cho chị.

- Về con chung: Chị X và anh Nguyễn Minh H có một con chung Nguyễn Minh Th sinh ngày 07/7/2014, hiện đang do chị X chăm sóc. Nếu ly hôn chị X xin tiếp tục được nuôi cháu và chưa yêu cầu anh H cấp dưỡng.

- Về tài sản chung; nợ chung: Chưa yêu cầu Toà án giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Minh H: Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã gửi các văn bản tố tụng; Thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu anh Nguyễn Minh H có quan điểm về việc giải quyết vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xử…cho anh Nguyễn Minh H thông qua ông Nguyễn Đình V và bà Đậu Thị L là bố mẹ của anh H , nhưng hiện anh Nguyễn Minh H vẫn vắng mặt và cũng không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của họ. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo bà Đậu Thị L mẹ của anh H thì anh Nguyễn Minh H hiện đang lao động tại Nhật Bản, mặc dù không có nơi cư trú cụ thể, nhưng anh H thường xuyên điện về cho ông V , bà L nên anh H đã biết được việc chị X xin ly hôn anh và không có ý kiến gì. Việc anh Nguyễn Minh H vắng mặt được xác định, cố tình giấu địa chỉ và không khai báo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định và cho họ ly hôn nhau để giải phóng cho chị X và giao con chưa thành niên cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng; tài sản chung chưa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Minh H hiện đang ở nước ngoài, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo bà Đậu Thị Lan xác định thì, anh Nguyễn Minh H hiện đang lao động tại Nhật Bản, mặc dù không biết nơi cư trú cụ thể, nhưng anh Hoàng thường xuyên điện thoại về cho bà L , ông V nên anh H đã biết được việc chị X xin ly hôn anh và cũng không có ý kiến gì. Do đó, việc anh Nguyễn Minh H vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ; từ chối khai báo theo quy định tại Công văn số 253/TATC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Đối với chị Nguyễn Thị X đã có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, nhưng do điều kiện, nên chị X đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 207, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.

Về nội dung: Tại phiên tòa, mặc dù vắng mặt, nhưng chị Nguyễn Thị X vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Minh H và nuôi con chưa thành niên. Xét thấy, chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Minh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết hôn hai người chung sống hạnh phúc với nhau đến tháng 9/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp nên thường xung đột lẫn nhau. Sau đó anh H làm thủ tục xuất khẩu sang Nhật Bản lao động và cắt đứt mọi liên lạc, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay chị Nguyễn Thị X xác định, tình cảm vợ chồng không còn; mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho họ ly hôn để giải phóng cho chị X.

Về con chung: Chị X và anh Hoàng có một con chung Nguyễn Minh Th sinh ngày 07/7/2014, hiện cháu đang do chị X nuôi dưỡng. Anh H đang ở nước ngoài chưa có điều kiện để trực tiếp chăm sóc con chung, nên cần giao cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Hiện chị X chưa yêu cầu và anh H cũng chưa có ý kiến nên Tòa án chưa xem xét. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Hiện tại chị X chưa yêu cầu giải quyết và anh Nguyễn Minh H cũng chưa có ý kiến gì nên Tòa án chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 207; Khoản 3 Điều 228; Điều 147; Khoản 1, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 53, 56 và Điều 81, 82, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Minh H.

2. Về con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Minh Th sinh ngày 07/7/2014 cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị X chưa yêu cầu và anh Nguyễn Minh H chưa có ý kiến nên Tòa án chưa xem xét. Anh Nguyễn Minh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0003277 ngày 24/3/2020.

5. Về quyền kháng cáo:

5.1. Chị Nguyễn Thị X có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản sao bản án sơ thẩm.

5.2. Anh Nguyễn Minh H đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hoặc được niêm yết bản sao bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:51/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về