Bản án 51/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 51/2019/HS-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Trịnh Trung H, sinh năm 1984 tại tỉnh Nam Định. Nơi đăng ký hộ khẩu: Số 5/3/92 đường M, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Tổ 8, Đầm Bét, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Văn C, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1985; có 02 con sinh năm 2006 và năm 2009; tiền án: Ngày 13-9-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28-7-2015, Công an phường Nguyễn Du, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Gây mất trật tự công cộng”, ngày 06-11-2015, Công an phường Nguyễn Du, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Gây mât trật tự an ninh khu dân cư”, ngày 14-01-2017, Công an thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền (phạt 1.500.000 đồng) về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tạm giữ từ ngày 05-12-2018 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 04-12-2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường L, phường V, thành phố N, phát hiện Trịnh Trung H đang điều khiển xe máy BKS: 18B1-xxxx chở theo Bùi Thanh S, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Tổ 8, phường H, thành phố N có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra thu giữ trong túi quần bên phải của H 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 02x02 cm bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (H khai là 01 túi ma túy đá của H để bán kiếm lời) (niêm phong ký hiệu M1) và 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 07x10 cm bên trong chứa chất bột dạng tinh thể màu trắng (H khai là túi ma túy Ketamine của H để bán kiểm lời) (niêm phong ký hiệu M2); kiểm tra S không thu giữ gì. Sau đó, tổ công tác đưa H, S và mời người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của H số tiền 600.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 01 điện thoại di động Samsung màu vàng và xe máy BKS: 18B1-xxxxx đều đã cũ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Hòa tại tổ xxx, phường L, thành phố N; Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nam Định không thu giữ được gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Trịnh Trung H trong vụ án. Bản kết luận giám định số 1059/GĐKTHS ngày 07-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

- Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của H được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma tuý; loại ma tuý: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 1,368 gam.

- Mẫu bột dạng tinh thể màu trắng thu giữ của H được niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma tuý; loại ma tuý: Ketamine; khối lượng mẫu: 1,224 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trịnh Trung H đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để bán kiếm lời và nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 04-12-2018, H đi đến khu vực M, thành phố N gặp và mua của một người phụ nữ tên Len (không rõ lai lịch) 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng và 01 túi ma túy Ketamine với giá 300.000 đồng. H cất 02 túi ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải rồi đi về nhà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, một nam thanh niên tên Hiệp (không rõ lai lịch) gọi điện cho H hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. Hòa đồng ý và cả hai hẹn ra trước cửa nhà nghỉ T, đường L, phường V, thành phố N để giao dịch. Sau đó H rủ Bùi Thanh S (đang ở nhà H) đi ra ngoài phố chơi với H (H không nói cho S biết việc H đi bán ma túy), rồi điều khiển xe máy BKS: 18B1-xxxx chở S đến khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường L, phường V, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên. Đồng thời H khai nhận mục đích tàng trữ túi ma túy đá và túi ma túy Ketamine để bán kiếm lời mỗi túi 100.000 đồng.

Bùi Thanh S khai: S không biết và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để bán kiếm lời của Trịnh Trung H.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho H và nam thanh niên hỏi mua ma túy của H , tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với Bùi Thanh S , do không liên quan đến hành vi phạm tội của Trịnh Trung H nên Cơ quan điều tra không đưa ra hình thức xử lý.

Chiếc xe máy BKS: 18B1-xxxx tạm giữ của H , xét thấy không phải vật chứng vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Lê Đức H , sinh năm 1987, trú tại: 315 T, phường T, thành phố N.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo hám lời.

Bản cáo trạng số 44/CT-VKSTPNĐ ngày 28 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trịnh Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Trung H về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đến 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu vàng đã thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo số tiền 600.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 04-12-2018, Trịnh Trung H đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,368 gam Methamphetamine và 1,224 gam Ketamine mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường L, phường V, thành phố N.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trịnh Trung H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần này bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt chính:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo bán trái phép chất ma tuý nhằm mục đích thu lời bất chính, để tăng cường tính răn đe và phòng ngừa chung cần phạt bị cáo một khoản tiền nhất định sung quỹ Nhà nước. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên ấn định mức tiền phạt ở mức thấp nhất theo qui định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 1059/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

- 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu vàng đã cũ là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc mua bán trái phép chất ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Số tiền 600.000 đồng đã thu giữ là tài sản riêng của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm và hình phạt bổ sung.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Trung H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trịnh Trung H 48 (bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05-12-2018.

- Phạt bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1059/GĐKTHS;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu vàng đã cũ;

- Trả lại cho bị cáo số tiền 600.000 đồng (sáu trăm ngàn đồng) đã thu giữ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm và hình phạt bổ sung.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Trịnh Trung H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật thi hành án Dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về