TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 51/2019/HS-PT NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 35/2019/TLPT-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Lâm Phú Q; do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 236/2018/HS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lâm Phú Q, sinh năm 1986; nơi cư trú: Ấp T, xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Q tịch: Việt Nam; con ông: Lâm Hoàng H và bà: Đặng Thị R; tiền án, tiền sự: Không; khởi tố ngày 30/8/2018. Bị cáo tại ngoại có mặt.
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo:
- Bị hại: Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố C; địa chỉ: Số 77, đường N, phường 9, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Văn K, Phó trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố C, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Biết tại Trung tâm Văn hóa H thuộc khóm 1, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau có 02 tủ điều khiển điện không khóa cửa, không người trông coi, Lâm Phú Q nảy sinh ý định chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 00 giờ ngày 16/5/2018, sau khi nhậu cùng Tuấn A, sinh năm 1991, trú tại xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau và những người bạn, Q điều khiển xe mô tô biển số 94F7-9990 chở Tuấn A đến Trung tâm Văn hóa H, kêu Tuấn A ngồi ngoài đợi Q vào trong có việc riêng. Tuấn A say rượu nằm ghế đá ngủ. Q mở cốp xe lấy 01 chìa khóa 13; 01 chìa khóa 17; 02 chìa khóa 19; 01 chìa khóa 24; 01 cây vít bake; 01 cây kềm cắt dây điện; 01 cây dao cắt;
01 cuộn băng keo nhựa đen; 02 bao nylon đi vào nơi 02 Tủ điều khiển điện tháo lấy các tài sản gồm: 04 Contactor GMC (D) 65; 01 QRCONTRLOLER; 01 đoạn dây điện CV22 dài 21 mét bỏ vào bao nylon rồi mang ra ngoài, bị lực lượng công an phường 5, thành phố C phát hiện bắt quả tang.
Tang vật thu giữ: 01 chìa khóa 13; 01 chìa khóa 17; 02 chìa khóa 19; 01 chìa khóa 24; 01 cây vít bake; 01 cây kềm cắt dây điện; 01 cây dao cắt; 01 cuộn băng keo nhựa đen; 02 bao nylon; 04 Contactor GMC (D) 65; 01 QRCONTRLOLER; 01 đoạn dây điện CV22 dài 21 mét; 01 xe mô tô biển số 94F7-9990.
Tại kết luận định giá tài sản số 126/KL-HĐĐG ngày 12/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố C kết luận: Tại thời điểm tháng 5 năm 2018, các tài sản có giá trị như sau: 04 khởi động từ Contactor GMC (D) 65: 1.100.000 đồng x 04 cái = 4.400.000 đồng; 01 mặt số 04 cấp QRCONTRLOLER = 680.000 đồng; Đoạn dây điện CV22 dài 21 mét: 45.000 đồng x 21 mét = 945.000 đồng. Tổng cộng: 6.025.000 đồng.
Đối với 01 xe mô tô biển số 94F7-9990, bị cáo khai mua xe cũ chưa chuyển tên. Xác minh xe do bà Trần Thị N, sinh năm 1968, cư trú tại ấp C, xã C1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu đăng ký chủ sở hữu. Hiện bà N cùng gia đình không có mặt ở địa phương.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 236/2018/HS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; xử phạt bị cáo Lâm Phú Q 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 94F7-9990.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 03 tháng 01 năm 2019, bị cáo Lâm Phú Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin nhận lại xe mô tô biển số 94F7-9990. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; sửa bản án sơ thẩm số 236/2018/HS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố C theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo và trả lại xe mô tô cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lâm Phú Q thừa nhận hành vi: Khoảng 00 giờ ngày 16/5/2018, sau khi uống rượu, Q điều khiển xe mô tô biển số 94F7-9990 chở Tuấn A đi đến Trung tâm Văn hóa H thuộc khóm 1, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Q kêu Tuấn A ngồi bên ngoài chờ. Tuấn A say rượu nằm ghế đá ngủ. Q vào Trung tâm văn hóa lấy các tài sản gồm: 04 khởi động từ Contactor GMC (D);
01 mặt số 04 cấp QRCONTRLOLER; đoạn dây điện CV22 dài 21 mét thì bị bắt quả tang. Bị cáo thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản là vi phạm pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kháng cáo cho rằng kết quả định giá tính theo nguyên giá nên trị giá tài sản chiếm đoạt 6.025.000 đồng là cao, trong khi tài sản đã qua sử dụng nên không đồng ý giá trị này. Căn cứ vào văn bản giải thích kết quả định giá số 01/HĐĐG ngày 16/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố C thì sau trừ khấu hao, tài sản bị chiếm đoạt có trị giá 37,5% bằng tiền là 2.259.000 đồng. Bị cáo đồng ý với trị giá tài sản đã được khấu hao. Vì vậy, chấp nhận trị giá tài sản bị cáo Q chiếm đoạt là 2.259.000đồng.
[3] Hành vi của bị cáo Lâm Phú Q lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản tại Công viên văn hóa Hùng Vương thuộc sở hữu của Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố C là tài sản nhà nước có trị giá 2.259.000 đồng là vi phạm pháp luật hình sự; phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã xử là đúng.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lâm Phú Q nhận thấy: Bị cáo có đủ nhận thức biết rõ trộm cắp tài sản là phạm tội, nhưng vì mục đích hám lợi bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nên phải bị pháp luật xử lý và chịu hình phạt của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: không tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã được thu hồi trả lại cho bị hại; sau phạm tội có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tính chất vụ án đơn giản; phạm tội gây thiệt hại không lớn; bị cáo có địa chỉ rõ ràng. Do đó bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng án treo, tự cải tạo sửa chữa trở thành người tốt, nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của án sơ thẩm nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, chịu thời gian thử thách cũng đủ răn đe, nghiêm trị bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Đối với xe môtô biển số 94F7-9990 bị cáo mua xe cũ của người khác chưa chuyển tên, là phương tiện sinh hoạt của bị cáo, không phải phương tiện chuyên dùng dùng vào việc phạm tội nên thuộc trường hợp phải bị tịch thu, cần trả lại cho bị cáo.
[6] Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e, d khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Sửa bản án sơ thẩm số: 236/2018/HS-ST ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau về hình phạt và xử lý vật chứng.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Lâm Phú Q 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 17/4/2019.
Giao bị cáo Lâm Phú Q cho Uỷ ban nhân dân xã T1 huyện Đ, tỉnh Cà Mau quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì có thể bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trả lại cho Lâm Phú Q 01 xe mô tô biển số 94F7-9990, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C đang quản lý thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/11/2018.
4. Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Lâm Phú Q không phải chịu.
5. Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2019/HS-PT ngày 17/04/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 51/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về