Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn giữa chị Th và anh

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ TH VÀ ANH H

Ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019, về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2019/QĐXX-ST ngày 26 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1991 (Có mặt)

Địa chỉ: Khu phố 1, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn: Anh Lý Văn H, sinh năm 1988 (Vắng mặt)

HKTT: Ấp P, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Ấp H, xã T, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10-5-2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:

- Về hôn nhân: Vào năm 2016, chị Nguyễn Thị Th và anh Lý Văn H quen biết và tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại UBND phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08-12-2016.

Thi gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng trong thời gian chị Th có thai thì phát hiện anh H không lo làm ăn mà thường xuyên ăn chơi, cờ bạc dẫn đến nợ nần, các chủ nợ nhiều lần đến đòi tiền thì anh H bỏ đi miền Trung một thời gian rồi quay về, chị Th phải tự mình lo cho con. Đến khi con được 06 tháng thì anh H lại gây nợ và bỏ đi Phú Quốc. Chị Th đã nhiều lần bỏ qua cho anh H để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H vẫn không sửa đổi nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chị Th đã bỏ về nhà mẹ ruột sống từ tháng 11 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian này anh H có đến thăm con vài lần.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Th yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị Th và anh H có 01 con chung tên Lý Chí Ng, sinh ngày 21-02-2018, hiện nay chị Th đang nuôi dưỡng. Chị Th yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Ng, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con vì chị có đủ điều kiện kinh tế nuôi con được.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lý Văn H: Không có ý kiến bằng văn bản theo Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập làm việc, Thông báo phiên họp và Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án.

Ti phiên tòa anh H vắng mặt.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký: Thực hiện đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Thi hạn chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử: Đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th đối với bị đơn anh Lý Văn H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghị án, Toà án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lý Văn H chưa có ý kiến xác nhận theo đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th, Toà án đã làm đầy đủ thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý xử vắng mặt bị đơn. Do vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Lý Văn H chung sống với nhau vào năm 2016 trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08-12-2016, đây là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th: Vợ chồng chị Th và anh H không còn thương yêu, quý trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau nữa, thể hiện qua lời trình bày của chị Th tại Toà án và qua xác minh tại địa phương: Chị Th và anh H có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống hàng ngày, nguyên nhân do anh H không lo làm ăn, thường xuyên ăn chơi, cờ bạc dẫn đến nợ nần và bỏ nhà ra đi nhiều lần, chị Th phải một mình nuôi con, chị Th đã nhiều lần bỏ qua cho anh H để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H vẫn không sửa đổi nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Mặt khác, chị Th và anh H đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay mà tình cảm vợ chồng vẫn không hàn gắn được. Toà án xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Th và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị Th xin ly hôn với anh H là có căn cứ để chấp nhận.

[4] Về nuôi con chung: Chị Th và anh H có 01 con chung tên Lý Chí Ng, sinh ngày 21-02-2018, hiện nay chị Th đang nuôi dưỡng. Chị Th yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Ng, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con vì chị có thu nhập ổn định, đủ điều kiện kinh tế nuôi con được.

Xét thấy, trong thời gian chị Th và anh H sống chung cũng như từ thời gian ly thân cho đến nay, cháu Ng vẫn do một mình chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. Mặt khác, cháu Ng chưa đủ 03 tuổi nên giao cháu Ng cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị Th được tiếp tục nuôi con chung Lý Chí Ng. Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập anh H đúng theo quy định pháp luật nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do. Vì vậy, Toà án không tiến hành hoà giải, đối chất về tài sản chung và nợ chung giữa chị Th và anh H được. Mặt khác, tại Toà án cũng như tại phiên toà chị Th xác nhận trong thời gian chung sống cùng anh H, chị Th và anh H không tạo lập được tài sản gì, còn nợ là nợ riêng của anh H. Cho nên về phần tài sản chung và nợ chung Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

[6] Thống nhất ý kiến của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án như đã phân tích và nhận định trên.

[7] Về án phí: Chị Th là nguyên đơn trong vụ án, do đó chị phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng theo quy định tại Nghị quyết về án phí, lệ phí Toà án và tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 147, 227, 228 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014Điu 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của U ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Lý Văn H.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Lý Chí Ng, sinh ngày 21-02-2018 cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị Th không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Lý Văn H có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Do đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000 đồng nhưng chị Th được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009770 ngày 15-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, chị Th không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014”.

5. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lý Văn H vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn giữa chị Th và anh

Số hiệu:51/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về