Bản án 51/2018/HSST ngày 30/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 51/2018/HSST NGÀY 30/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2018, tại Trung tâm sinh hoạt cộng động phường Bảo An, Tp. Phan Rang - Tháp Chàm. Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2018/HSST ngày 12 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2018/QĐXXST-HS ngày 16/7/2018 đối với các bị cáo:

1. LẠI XUÂN Đ, sinh năm: 1996 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: thôn C, xã Th, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:

không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lại Hoàng N, sinh năm 1972 và bà Đặng Thị Ánh T, sinh năm 1975; Vợ: Đỗ Thị Hồng A, sinh năm 1997. Có 01 người con sinh năm 2017.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/11/2017. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm (có mặt).

2. NGUYỄN VĂN B (Th), sinh năm: 1996 tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: thôn C, xã Th, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Nghề nghiệp: Thợ sắt; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ph (đã chết) và bà Phạm Thị Kh, sinh năm 1976.

Tiền án, Tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 23/8/2017, Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm ra Quyết định đình chỉ vụ án theo Quyết định truy tố của Viện kiểm sátnhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm đối với Nguyễn Văn B, về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a, i khoản 1, Điều 104 Bộ luật hình sự. Lý do người bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố.Bị cáo bị bắt quả tang từ ngày 23/11/2017. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm (có mặt).

* Người làm chứng:

- bà Đặng Thị Ánh T , sinh năm 1975 (có mặt).

Nơi cư trú: thôn C, xã Th, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

- anh Hồ Quang Tr (T), sinh năm 1993 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố X, phường Ph, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

- anh Trần Trung Th, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố X, phường B, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 15 phút, ngày 23/11/2017 tại khu vực tái định cư thuộc thôn C, xã Th, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận bắt quả tang đối tượng Nguyễn Văn Bình (Th) đang bán trái phép chất ma túy cho Hồ Quang Tr (T), đồng thời thu giữ của Tr 01(một) bịch nylon được hàn kín, bên trong có những tinh thể màu trắng và thu giữ của B số tiền 300.000đồng. Qua làm việc Hồ Quang Tr đã khai những tinh thể màu trắng bên trong gói nylon trên là ma túy đá, vừa mua được của Nguyễn Văn B với giá 300.000 đồng, Nguyễn Văn B cũng đã xác định lời trình bày của Hồ Quang Tr là đúng.

Ngày 24/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Nguyễn Văn B tại thôn C, xã Th, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Qua khám xét đã thu giữ 02 mảnh nylon màu trắng; 01 đoạn ống nhựa màu trắng được cắt nhọn 01 đầu; 01 dao lam và 01 quẹt ga, B khai nhận những đồ vật trên B dùng để phân chia ma túy đá.

Quá trình điều tra, Hồ Quang Tr còn khai: Ngoài việc mua ma túy của Nguyễn Văn B, Tr còn nhiều lần mua ma túy của Lại Xuân Đ để sử dụng, đồng thời Nguyễn Văn B cũng khai đã được Lại Xuân Đ giới thiệu cho B 02 lần bán ma túy cho Tr, bán được 02 bịch với giá 600.000 đồng. Cùng ngày Cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lại Xuân Đ, kết quả thu giữ của Đ 02 điện thoại di động và số tiền 22.800.000 đồng. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Lại Xuân Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm đã xác định: Vào khoảng giữa tháng 10/2017, Lại Xuân Đ có quen biết với một người tên H (chưa rõ nhân thân), ở xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, quá trình quen biết H đã nhiều lần đưa ma túy cho Đ đem đi bán cho Trần Trung Th và Hồ Quang Tr, sau đó mang tiền về đưa cho H để được H cho ma túy sử dụng, cụ thể các lần bán ma túy của Đ như sau:

Bán cho Trần Trung Th, sinh năm 1994, ở khu phố X, phường B, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, 02 lần, bán được 02 bịch ma túy đá với tổng số tiền là 800.000 đồng:

Lần 1: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 15/10/2017, tại khu vực trước nhà của Lại Xuân Đ ở thôn C, xã Th, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, Đ đã bán cho Th 01 bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng.

Lần 2: Vào khoảng 19 giờ, ngày 19/11/2017, tại khu vực gần nhà của Nguyễn Văn B ở thôn C, xã Th, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, Đ đã bán cho Th 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng.

Bán cho Hồ Quang Tr (T), sinh năm 1993, ở khu phố X, phường Ph, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, 03 lần, bán được 03 bịch ma túy đá với tổng số tiền là 800.000 đồng:

Lần 1: Vào khoảng 20 giờ, ngày 01/11/2017, tại khu vực gần nhà của Đ, Đ đã bán cho Tr 01 bịch ma túy đá với giá 200.000 đồng.

Lần 2: Vào khoảng 16 giờ, ngày 14/11/2017, tại khu vực trước nhà của B, Đ đã bán cho Tr 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng.

Lần 3: Vào khoảng 16 giờ, ngày 18/11/2017, tại khu vực phía trước nhà của Đ, Đ đã bán cho Tr 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng.

Ngoài ra, Lại Xuân Đ còn khai đã có 02 lần giúp sức cho Nguyễn Văn B bán ma túy cho Hồ Quang Tr, cụ thể như sau: Ngày 21/11/2017, Nguyễn Văn B mua của một người tên H (chưa rõ nhân thân), ở xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, 01 bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng, rồi đem về nhà lấy ra một ít, rủ Lại Xuân Đ đến để sử dụng, số còn lại B phân chia ra thành 02 bịch nhỏ cất giấu. Sau đó, B nói với Đ nếu có ai hỏi mua ma túy thì giới thiệu cho B bán để kiếm lời, Đ đồng ý và đã giới thiệu cho B bán ma túy cho Tr 02 lần, bán 02 bịch ma túy đá với tổng số tiền là 600.000 đồng, các lần bán ma túy của B thể hiện như sau:

Lần 1: Vào khoảng 16 giờ, ngày 22/11/2017, Tr đã điện thoại cho Đ hỏi mua 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng, Đ đồng ý và điện thoại nói cho B biết, Tr có hỏi mua ma túy thì B nói với Đ kêu Tr đến nhà B để lấy ma túy, sau đó B đã gặp Tr và bán cho Tr 01 bịch ma túy đá với giá là 300.000 đồng.

Lần 2: Vào khoảng 15 giờ, ngày 23/11/2017, Tr tiếp tục điện thoại cho Đ để hỏi mua 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng thì Đ đồng ý và nói cho B biết để đi bán ma túy cho Tr. Sau khi gặp nhau tại khu vực trước nhà Đ, B đã bán cho Tr 01 bịch ma túy đá với giá 300.000 đồng thì bị lực lượng Công an tỉnh Ninh Thuận bắt quả tang.

Tổng cộng, Đ đã có 05 lần trực tiếp bán 05 bịch ma túy đá với tổng số tiền là 1.600.000 đồng và đã có 02 lần giúp sức giới thiệu người mua ma túy để B bán 02 lần, bán được 02 bịch ma túy đá với tổng số tiền là 600.000 đồng.

Quá trình điều tra Lại Xuân Đ còn khai đã giúp đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân), ở Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng bán ma túy cho các đối tượng Q và N nhằm để được H cho ma túy sử dụng. Nguyễn Văn B đã thừa nhận có mua ma túy của đối tượng H về sử dụng và bán lại kiếm lời. Tuy nhiênqua điều tra, xác minh tại địa phương (theo lời khai của Đ), không xác định được các đối tượng H, Q và N.

Tại kết luận giám định số 4006/C54B, ngày 27/11/2017, của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng là: 0,0727 gam, loại Methamphetamine (mẫu vật đã sử dụng hết cho công tác giám định).

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số 46/CT-VKS-PRTC, ngày 11 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố các bị cáo Lại Xuân Đông và Nguyễn Văn Bình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194, điểm o, p khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS xử phạt các bị cáo Lại Xuân Đ từ 03 đến 04 năm tù, Nguyễn Văn B từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đề nghị xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định pháp luật.

Các Bị cáo không có tranh luận.

Các Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lại Xuân Đ và Nguyễn Văn B khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập tại hồ sơ vụ án trong quá trình điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp nên có đủ cơ sở để xác định các bị cáo đã thực hiện hành vi cụ thể như sau: Trong khoảng thời gian từ ngày 15/10/2017 đến ngày 23/11/2017, Lại Xuân Đ đã có 05 lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy, bán được 05 bịch ma túy đá, cho các đối tượng Trần Trung Th và Hồ Quang Tr, thu được tổng số tiền 1.600.000 đồng và đã cùngNguyễn Văn B bán 02 lần, bán 02 ma túy đá cho Hồ Quang Tr, thu được tổng số tiền 600.000 đồng.

Theo hướng dẫn tại Công văn 04/TANDTC-PC ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Do các Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2018). Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Lại Xuân Đ và Nguyễn Văn B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm2009) là có căn cứ.

[3] Xét hành vi trên của các bị cáo Lại Xuân Đ và Nguyễn Văn B là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác và làm lan tràn tệ nạn nghiện ma túy, nhất là hiện nay loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Đây là vụ án có tính đồng phạm giản đơn, nên cần phân tích tính chất mức độ phạm tội của từng bị cáo để có cơ sở cho việc lượng hình.

Xét thấy các Bị cáo là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức về hành vi sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, vừa sử dụng vừa bán kiếm lời để tái sử dụng ma túy lần sau nên mặc dù biết vi phạm nhưng các bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Tuy nhiên, sau khi tội phạm bị phát hiện, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú các lần phạm tội trước đó. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm o, p khoản 1 Điều 46 của BLHS. Do các bị cáo có nhiều tình giảm nhẹ, chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của Viện kiểm sát áp dụng Điều 47 BLHS quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định để xem xét cho các bị cáo. Trong vụ án này bị cáo Đ do phạm tội nhiều lần hơn bị cáo B, ngoài ra Đ còn giúp sức cho B bán ma túy 02 lần cho Hồ Quang Tr nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng mức hình phạt của bị cáo Đ cao hơn bị cáo B.

[4] Xét quan điểm của Viện Kiểm sát về việc định tội và định khung hình phạt đối với các bị cáo Đ và B, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, quan điểm về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[5] Đối với Trần Trung Th và Hồ Quang Tr là những người đã nhiều lần mua ma túy của Đ và B về sử dụng, hành vi của Th và Tr đã phạm vào khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Vì vậy, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những đối tượng trên theo quy định của pháp luật là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 02 mảnh nylon màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng một đầu được cắt nhọn; 01 dao lam và 01 quẹt ga. Đây là dụng cụ phân chia ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 300.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu đỏ đen đã thu giữ của Nguyễn Văn B, đây là điện thoại B đã sử dụng làm phương tiện liên lạc để mua bán ma túy và số tiền do B bán ma túy mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL, màu vàng đồng, đây là những điện thoại Lại Xuân Đ sử dụng làm phương tiện liên lạc để mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền 300.000đồng do Nguyễn Văn B bán ma túy mà có nên yêucầu B phải nộp lại để sung quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền 22.800.000 đồng đã tạm giữ của Lại Xuân Đ trong quá trình khám xét nơi ở, Cơ quan điều tra xác định số tiền này là tài sản của bà Đặng Thị Ánh T (mẹ ruột Đ), không liên quan đến vụ án nên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bà T là có cơ sở.

- Đối với 0,0727 gam ma túy, loại Methamphetamine thu giữ được gửi đến giám định, đã sử dụng hết mẫu cho công tác giám định.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án. Các Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 2 (điểm b) Điều 194, điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Điều Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Các Bị cáo Lại Xuân Đ và Nguyễn Văn B (Thuộc) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lại Xuân Đ 3 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 24/11/2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B (Th) 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hànhhình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 23/11/2017).

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 mảnh nylon màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng một đầu được cắt nhọn; 01 dao lam và 01 quẹt ga (đã niêmphong). Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận ngày 12/6/2018.

- Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu đỏ đen đã thu giữ của Nguyễn Văn B; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL, màu vàng đồng thu giữ của Lại Xuân Đ và số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) thu giữ của B. Theo biênbản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận ngày 12/6/2018 và Ủy nhiệm chi chuyển tiền lập ngày 13/6/2018.

- Buộc Nguyễn Văn B phải nộp lại số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng)do bán ma túy có được để sung quỹ Nhà nước.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo ủy nhiệm chi chuyển tiền lập ngày 13/6/2018 giữa Công an Tp. Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm để sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Buộc các bị cáo Lại Xuân Đ và Nguyễn Văn B (Th) mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/7/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HSST ngày 30/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về