Bản án 51/2018/HSST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 51/2018/HSST NGÀY 28/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại Nhà Văn hóa phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 46/2018/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/ QĐXXST- HS ngày 14 tháng  6 năm 2018, đối với bị cáo: Họ và tên: Phạm Văn B - tên gọi khác: không; giới tính: Nam Sinh ngày 02/10/1983 tại huyện B- Lào Cai

Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện B , tỉnh Lào Cai

Nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K (đã chết) và bà Vũ Thị V, sinh năm 1949, hiện trú tại Thôn T , xã X , huyện B , tỉnh Lào Cai có vợ Nguyễn Thị Hồng N (ly hôn năm 2014); có 01 con Phạm Hoàng H , sinh năm 2014, hiện ở với mẹ tại thôn P , thị trấn P , huyện B , tỉnh Lào Cai; tiền án: không; tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai - Có mặt

* Người làm chứng:  Anh Trần Ngọc T ;

Địa chỉ: Thôn H , xã X , huyện B , tỉnh Lào Cai- vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23/4/2018 bị cáo đã đi xe ôm của anh Trần Ngọc T từ chợ X , xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai lên xã C, thành phố L với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đi bị cáo mang theo số tiền 400.000đ( Bốn trăm ngàn đồng), khi đi đến khu vực đầu cầu có đường sắt chạy qua thuộc xã C, thành phố L, tỉnh Lào Cai bị cáo bảo anh Trần Ngọc T dừng xe đứng đợi, còn bị cáo đi bộ xuống dưới gầm cầu mua ma túy của một người đàn ông, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ 02 gói ma túy được gói bằng giấy bạc với giá 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). Sau khi mua được ma túy bị cáo dấu vào túi quần bên phải đang mặc, rồi tiếp tục đi xe ôm của anh Trần Ngọc T để đi về nhà, khi đến khu vực gần cổng Công an phường T, bị cáo bảo T dừng xe để bị cáo đi bộ đến cửa hiệu thuốc gần đó để mua xi lanh về sử dụng ma túy cho bản thân. Khi bị cáo vừa đi bộ vào đến cửa hiệu thuốc thì bị tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện, kiểm tra băt giư cung toan bô tang vât.

Ngày 23/4/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai ra quyết định trưng cầu giám định số 36. Trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai giám định về ma túy. Tại biên bản mở niêm phong, trích mẫu, tái niêm phong đối tượng giám định lập cùng ngày giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định. 02 (hai) gói chất bột khô, màu trắng có tổng khổi lượng là 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam .Trích 0,10 gam để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,28 (không phẩy hai mươi tám) gam được tái niêm phong hoàn trả cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 81/GĐMT ngày 24/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam chất bột khô, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin). Heroine (Hêrôin) thuộc danh mục I, số thứ tự 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 41/KSĐT ngày 29/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Phạm Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Phạm Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0,38 gam Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội tàng trừ trái phép chất ma túy. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung “Phạt tiền” đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 0,28( không phẩy hai mươi tám) gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định được tái niêm phong.

Ngoài ra, còn đề nghị tuyên án phí hình sự sơ thẩm; tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiển sát viên Viện kiển sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, sơ đồ vị trí bắt quả tang, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy, để có ma túy sử dụng bị cáo nên khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23/4/2018 bị cáo đã đi xe ôm của anh Trần Ngọc T từ chợ X , huyện B , tỉnh Lào Cai, khi đi đến khu vực đầu cầu có đường sắt chạy qua thuộc xã C, thành phố L, tỉnh Lào Cai bị cáo bảo người lái xe ôm dừng xe đứng đợi, còn bị cáo đi bộ xuống dưới gầm cầu mua ma túy của một người đàn ông, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ 02 gói ma túyvới giá 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). Sau khi mua được ma túy bị cáo dấu vào túi quần bên phải đang mặc, rồi tiếp tục đi xe ôm của anh Trần Ngọc T để đi về nhà, khi đến khu vực gần cổng Công an phường T , bị cáo bảo T dừng xe để bị cáo đi bộ đến cửa hiệu thuốc gần đó để mua xi lanh về sử dụng ma túy cho bản thân. Khi bị cáo vừa đi bộ vào đến cửa hiệu thuốc thì bị tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện, kiểm tra băt giữ cùng toàn bô tang vât.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận ngày ngày 23/4/2018 bị cáo Phạm Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo là người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy, nhưng vì nghiện chất ma túy, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu rèn luyện bản thân, để có ma túy sử dụng bị cáo đã coi thường pháp luật đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của nhà nước ta, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cần có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cần áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi phạm tội trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, mẹ đẻ bị cáo bà Vũ Thị V được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị cáo được hưởng. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “ Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc cấm làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, đang ở cùng với gia đình.Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã thu giữ của bị cáo 02 gói nhỏ Heroine có trọng lượng là 0,38 (không phẩy ba mươi tám) gam Heroine; Cơ quan giám định đã trích mẫu 0,10 gam từ 0,38 gam Heroine để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại 0,28( không phẩy hai mươi tám) gam được tái niêm phong hoàn lại cơ quan trưng cầu. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 01(một) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo 23/4/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 0,28( không phẩy hai mươi tám) gam Heroine (Hêrôin) được tái niêm phong trong 01 bì thư, trên một mặt của bì thư có ghi: Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định trong vụ Phạm Văn B có hành vi phạm tội về ma túy, phát hiện (thu giữ) ngày 23/4/2018 tại tổ 02, phường Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/5/2018)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HSST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:51/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về