Bản án 51/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 51/2018/HS-ST NGÀY 20/07/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 20/7/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2018/TLST-HS ngày 08/6/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 53/2018/QĐXXST-HS ngày 09/7/2018, đối với bị cáo: 

Đặng Mạnh T, sinh năm 1986; nơi sinh tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Tổ X, Thôn Y, xã SN, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Mạnh C và bà Đào Thị Minh N; có 03 người con chưa thành niên; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2006/HSST ngày 05/11/2006 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai đã kết án: 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm; về tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm1960 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1964; cùng nơi cư trú: Ấp NL2, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn dân sự: Bà Lữ Thị Kim T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Tổ X, ThônY, xã SN, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận.

- Người làm chứng: Ông Đinh Nguyên V, sinh năm 1987; nơi cư trú: Số nhà K, đường ĐBP, Phường L, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.(Tại phiên tòa, bị cáo và bà T có mặt; ông T, bà M và ông V vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo có giấy phép lái xe hạng D đang còn giá trị đến ngày 14/7/2019.

Khoảng 22 giờ 10 phút, ngày 17/12/2017, bị cáo điều khiển xe ô tô biển số 60B-02781 đi trên tuyến đường từ hướng Dầu Giây đi Lâm Đồng, khi đến Km60+900m Quốc lộ 20 thuộc ấp Ngọc Lâm 3, xã Phú Xuân, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai bị cáo điều khiển xe lấn qua phần đường bên trái để vượt xe phía trước cùng chiều, đã đụng vào xe mô tô biển số 60X2-1182 do người bị hại Nguyễn Duy H điều khiển theo chiều ngược lại gây tai nạn giao thông đường bộ, làm người bị hại chết.

Biên bản khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông đường bộ: Xe mô tô biển số 60X2-1182 nằm ngã bên làn đường phải dành cho xe thô sơ, đầu xe quay về hướng Lâm Đồng, đuôi xe hướng về Dầu Giây; đo từ trục trước và trục sau của bánh xe mô tô đến mép đường chuẩn lần lượt là 1m90 và 1m30; vết cày xe mô tô sau tai nạn dài 19m50, đứt quãng; đo từ đầu vết cày đến mép đường chuẩn là 3m60, đến trục bánh sau bên trái xe ô tô 60B-027.81 là 18m90, cuối vết cày vào mép đường chuẩn là 1m60, điểm đụng xe bên phần đường lưu thông của xe mô tô.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 363/TT/2017 ngày 29/12/2017của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận nguyên nhân chết của người bị hại do chấn thương não gây vỡ hộp sọ phức tạp, xuất huyết cầu não; nồng độ cồn trong máu 279,45 mg/100ml.

Cáo trạng số: 39/CT-VKSTP-ĐN ngày 28/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo, về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

* Kiêm sat viên trình bày ý kiến luân tôi như sau:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại cho tính mạng người bị hại; Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng luật nên giữ nguyên quyết định truy tố;

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại, làngười lao động chính trong gia đình, có 03 người con chưa thành niên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên bố: Bị cáo phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Xử phạt bị cáo từ 08 (tám) đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Vật chứng của vụ án: Công an huyện Tân Phú đã trả lại người có quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp và về trách nhiệm dân sự: Đến nay, người đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bị cáo và bị đơn dân sự phải bồi thường thiệt hại nữa nên không xem xét.

* Bị cáo trình bày ý kiến: Nội dung Bản cáo trạng là đúng sự thật, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Bị đơn dân sự trình bày ý kiến: Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng khác của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hoạt động tố tụng này của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đều hợp pháp.

Tuy Bản kết luận điều tra không ghi tổng số bút lục, Thống kê tài liệu không có dấu Cơ quan Điều tra là vi phạm quy định của pháp luật nhưng những vi phạm này không ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng, cũng như các vấn đề phải giải quyết trong vụ án nên Tòa án vẫn xét xử vụ án mà không hoãn phiên tòa để khắc phục vi phạm này.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Ý kiến trình bày của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ các chứng cứ này, có đủ cơ sở chứng minh , kết luận: Bị cáo vi phạm khoản 2 Điều 14 của Luật giao thông đường bộ, đã phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng luật.

* Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để nhận biết được hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật Hình sự, rất nguy hiểm cho xã hội; bởi lẽ khi tham gia giao thông bị cáo không tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ đã gây ra hậu quả làm chết người bị hại. Hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của người bị hại mà còn gây đau thương về tinh thần đối với người thân thích của người bị hại, thiệt hại này không có gì để bù đắp được. Cần phải có hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; vợ chồng bị cáo đã bồi thường thiệt hại đối với bên người bị hại; bị cáo là người lao động chính trong gia đình, có 03 người con chưa thành niên; người đại diện hợp pháp của người bị hại có văn bản yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; người bị hại cũng có một phần lỗi: Trong máu người bị hại có nồng độ cồn 279,45 mg/100ml mà điều khiển xe mô tô tham gia giao thông và người bị hại điều khiển xe mà không bật đèn chiếu sáng tham gia giao thông trong thời điểm 22 giờ là vi phạm quy định của luật về an toàngiao thông đường bộ. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999 để giảm nhẹ một phần hinh phat đối với bi cao.

So sánh quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội, khung hình phạt, tìnhtiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì không có quy định nào trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo để áp dụng giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử vẫn căn cứ pháp luật hình sự có hiệu lực thi hành trước ngày 01/01/2018 để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp với Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ các nội dung đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quyết định áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởngán treo đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của chính sách pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo có khả năng học tập lao động trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, vẫn bảo đảm tác dụng giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm;

Giao Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án treo; vẫn tiếp tục áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo cho đến khi tuyên án đến ngày Tòa án tống đạt quyết định thi hành án hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đến bị cáo và cơ quan có thẩm quyền thi hành án hình sự. Tòa án xét xử vụ án để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

[3] Về vật chứng của vụ án: Công an huyện Tân Phú đã quyết định trả lại xe mô tô và xe ô tô nêu trên đến chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản hợp pháp là đúng luật nên Hội đồng xét xử không xem xét;

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại. Tại phiên tòa, vắng mặt người đại diện hợp pháp của người bị hại nên không có ý kiến, yêu cầu của họ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét. Khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Về chi phí tố tụng: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

* Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Lời luận tội của Kiểm sát viên đã đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị đầy đủ các nội dung phải giải quyết trong vụ án nhưng áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và án treo là không phù hợp với quy định tại Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử không chấp nhận phần ý kiến này của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 202; điểm b, p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999;

- Khoản 2 Điêu 136; Điều 292; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Mạnh T, phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Đặng Mạnh T 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 08 (tám) tháng, tính từ ngày 20/7/2018;

Giao Ủy ban nhân dân xã SN, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận giám sát , giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách; vẫn tiếp tục áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trúđối với bị cáo cho đến ngày Tòa án tống đạt quyết định thi hành án hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đến bị cáo (người bị kết án) và cơ quan có thẩm quyền thi hành án hình sự; Trường hợp ngươi bi kêt an thay đổi nơi cư trú trong giai đoạn thi hành án hình sự thi giải quyết theo quy định tại Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

* Về án phí:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

* Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và bà T có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông T và bà M có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày niêm yết Bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:51/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về